Dữ liệu an toàn khi sử dụng thuốc tránh thai đường uống trước và trong thai kỳ
DS. Thân Thị Mỹ Linh (Dịch)
Khoa Dược - BV Từ Dũ
Những người phụ nữ có sử dụng thuốc tránh thai đường uống trước hoặc trong khi mang thai không thấy xuất hiện gia tăng nguy cơ dị tật bẩm sinh cho thai nhi. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng những phụ nữ mang thai khi đang sử thuốc ngừa thai đường uống chưa chắc chắn sẽ gặp dị tật bẩm sinh cho thai nhi.
Brittany M. Charlton và các cộng sự đến từ khoa Dịch tễ học trường Y tế công cộng Havard T.H Chan, Boston, Massachusetts đã công bố kết quả nghiên cứu của họ ngày 06 tháng 1 năm 2016 trên tạp chí BMJ. Họ đã sử dụng cơ sở dữ liệu của Đan Mạch 1997-2011 (880.694 ca sinh còn sống) và dữ liệu tiền cứu thu thập về việc chỉ định sử dụng thuốc tránh thai đường uống. Các nhà điều tra chấp nhận rằng những người phụ nữ được kê đơn thuốc tránh thai đường uống là có sử dụng thuốc.
Để phục vụ cho mục tiêu nghiên cứu, những người phụ nữ được chia thành bốn nhóm tiếp xúc với thuốc ngừa thai, bao gồm: nhóm không sử dụng, nhóm sử dụng hơn 3 tháng trước khi bắt đầu mang thai, nhóm sử dụng 0-3 tháng trước khi bắt đầu mang thai và nhóm sử dụng sau khi mang thai.
Bởi vì dị tật bẩm sinh rất hiếm gặp, các nhà điều tra gộp các dị tật bẩm sinh thành các nhóm ví dụ như các khuyết tật chân tay.
Tỷ lệ các dị tật bẩm sinh lớn được xác định ở mức khoảng 25 trên 1000 ca sinh trên tất cả các nhóm tiếp xúc với thuốc ngừa thai. Các nhà nghiên cứu nhận thấy không có sự gia tăng đáng kể nguy cơ xuất hiện các dị tật ở các phân nhóm tiếp xúc với thuốc ngừa thai.
Nghiên cứu này thiếu sức mạnh về mặt thống kê và các nhà điều tra cũng thiếu thông tin về việc sử dụng folate cho việc xác định sự xuất hiện của các nhóm dị tật như gastroschisis (một dạng khiếm khuyết đường tiêu hóa) và hội chứng giảm sản tim trái.
"Nhìn chung, nghiên cứu của chúng tôi khẳng định lại phần lớn các tài liệu trước đây rằng sử dụng thuốc ngừa thai đường uống không làm tăng nguy cơ dị tật bẩm sinh. Vì các nghiên cứu trước đây đã báo cáo nguy cơ gia tăng khuyết tật đặc biệt bao gồm hội chứng giảm sản tim trái, gastroschisis, dị tật chân tay, bất thường ở đường tiết niệu, chúng tôi đã kiểm tra mỗi nhóm một cách riêng biệt. Nghiên cứu của chúng tôi không tìm thấy tăng đáng kể rủi ro một trong bốn loại dị tật bẩm sinh, mặc dù mỗi phân tích của chúng tôi nên được hiểu theo sự chính xác thống kê", các tác giả lưu ý.
Nghiên cứu bổ sung thêm vào cơ sở dữ liệu của lĩnh vực này, các nhà nghiên cứu thừa nhận rằng sự so sánh giữa các nghiên cứu là rất khó do những biến đổi lớn trong các khoảng thời gian tiếp xúc với thuốc ngừa thai. Một vài nghiên cứu cũng cho thấy rằng một dị tật bẩm sinh cụ thể, chẳng hạn như các khuyết tật chân tay, có liên quan với các bà mẹ sử dụng thuốc ngừa thai đường uống.
Các tác giả đã tiết lộ không có mối quan hệ tài chính liên quan.
Nguồn:
Medscape.com
Trong giai đoạn năm 2018-2021, Mạng lưới An toàn Chăm sóc Sức khỏe Quốc gia (NHSN) đã báo cáo rằng 0,4% (n = 1.951) các ca nhiễm trùng mắc phải tại bệnh viện (HAI) ở Hoa Kỳ nguyên nhân do Acinetobacter spp. gây ra. Trong số này có 28-45% không nhạy cảm với kháng sinh carbapenem (tức là trung gian hoặc đề kháng).
Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng (RCT), BLING III cung cấp bằng chứng việc sử dụng truyền liên tục (CI) so với truyền ngắt quãng piperacillin/tazobactam và meropenem trên bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Điều này được củng cố bởi một đánh giá tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp (SRMA) của 18 RCT về CI hoặc truyền kéo dài (EI) (thời gian từ 3–4 giờ) các kháng sinh beta-lactam. Thách thức hiện nay là chuyển đổi CI như một tiêu chuẩn chăm sóc cho bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Các cân nhắc chính bao gồm các vấn đề sau:
Các nhà nghiên cứu thuộc Đại học Alabama tại Birmingham, đã tiến hành phân tích dữ liệu thứ cấp trên đối tượng phụ nữ tăng huyết áp mạn tính trong thai kỳ, so sánh với phương pháp điều trị chính. Tăng huyết áp mạn tính nhẹ trong nghiên cứu được định nghĩa là huyết áp 140-159/90-104 mmHg trước 20 tuần của thai kỳ.
Nhiễm trùng huyết – sepsis - vẫn là một trong những nguyên nhân gây tử vong lớn nhất trên thế giới, Tổ chức Y tế Thế giới ước tính 11 triệu người tử vong mỗi năm do tình trạng này. Các yếu tố chính của việc quản lý sepsis là chẩn đoán sớm, liệu pháp kháng sinh kinh nghiệm sớm và phù hợp, với biện pháp kiểm soát nguồn gây bệnh thích hợp và bảo tồn chức năng các cơ quan.
Sự ra đời của vắc-xin giúp chúng ta chủ động phòng chống các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm. Tổ chức y tế thế giới ước tính chương trình tiêm chủng hiện nay giúp ngăn ngừa 3,5-5 triệu ca tử vong mỗi năm do các bệnh như bạch hầu, uốn ván, ho gà, cúm và sởi [2].
Phòng ngừa suy nhược, mệt mỏi, đau nhức:
Hoạt động mỗi ngày đi bộ ngắn, tập các bài tập nhẹ nhàng. Giữ tinh thần ổn định
Chế độ ăn hợp lý trao đổi thêm với bác sĩ về dinh dưỡng bổ sung (thực phẩm giàu protein như thịt, cá, phô mai, sữa chua...). Uống nhiều nước, trừ khi có hướng dẫn khác.
Chườm khăn lạnh nếu có nhức mỏi, đau cơ.