Dự phòng và điều trị thiếu máu thiếu sắt ở phụ nữ trong độ tuổi sinh sản
Ds. Hoàng Thị Vinh
Khoa Dược - BV Từ Dũ
Thiếu sắt là hiện tượng rối loạn dinh dưỡng phổ biến nhất trên thế giới và cũng là nguyên nhân chủ yếu gây thiếu máu. Theo số liệu thống kê của Tổ chức Y tế thế giới, vào năm 2005, ước tính có khoảng 2 tỷ người trên thế giới bị bệnh thiếu máu, trong đó 50% trường hợp là do thiếu sắt.
Phụ nữ và trẻ em là 2 nhóm đối tượng có nguy cơ thiếu máu do thiếu sắt cao nhất. Đặc biệt, thiếu máu chiếm tỷ lệ 20% trong số các nguyên nhân gây tử vong ở sản phụ.
I.Quá trình hấp thu và vận chuyển sắt trong cơ thể
Trong cơ thể, sắt được vận chuyển bằng cách gắn với một protein huyết tương - transferin, và được dự trữ dưới dạng ferritin hoặc hemosiderin. Hai vị trí có lượng sắt dự trữ lớn nhất là hệ thống mạng lưới nội bào và các tế bào gan, ngoài ra sắt còn được dự trữ trong cơ.
80% lượng sắt trong huyết tương được vận chuyển tới tủy xương và tham gia vào quá trình sản xuất hồng cầu. Ngoài ra, sắt còn là thành phần cơ bản của myoglobin và một số enzyme heme và nonheme khác. Do đó, thiếu sắt không chỉ ảnh hưởng đến sự sản xuất hồng cầu mà còn ảnh hưởng đến quá trình chuyển hóa ở cơ do sự suy giảm hoạt động của các enzyme.
* Nội dung chi tiết bài viết vui lòng bạn tải file .pdf
Sốt là triệu chứng phổ biến trong thực hành lâm sàng hàng ngày và một số lượng lớn người bệnh nhập viện do sốt. Nhiều người bệnh được dùng thuốc kháng sinh, thuốc kháng vi-rút, thuốc kháng nấm hoặc thuốc kháng ký sinh trùng, nếu coi nhiễm trùng là nguyên nhân chính. Tuy nhiên, thuốc được dùng để điều trị có thể là nguyên nhân tiềm ẩn gây sốt trong bối cảnh như vậy
Năm 2024, Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) đã ban hành hướng dẫn về việc sử dụng doxycyclin dự phòng sau phơi nhiễm (doxy-PEP) để phòng ngừa bệnh nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục (STI). Dự phòng sau phơi nhiễm là một chiến lược hoá trị dự phòng, trong đó thuốc được dùng sau khi có khả năng phơi nhiễm để ngăn ngừa nhiễm trùng. Đây là một chiến lược phòng ngừa phổ biến và hiệu quả đối với HIV và các bệnh nhiễm trùng khác, chẳng hạn như bệnh dại và uốn ván. Doxycyclin là một kháng sinh nhóm tetracyclin phổ rộng dung nạp tốt và được khuyến cáo điều trị bệnh chlamydia và là phương pháp thay thế trong điều trị giang mai ở những bệnh nhân không có thai.
Việc bẻ, nghiền viên nén không bao, bao phim, bao đường hoặc mở viên nang giải phóng dược chất tức thì không làm thay đổi sinh khả dụng của thuốc và giúp bệnh nhân tuân thủ điều trị tốt hơn
Trẻ em không phải người lớn thu nhỏ. Các yếu tố dược động học ở trẻ sơ sinh thay đổi liên tục do sự phát triển nhanh về sinh lý. Tiêm tĩnh mạch thường được sử dụng trong điều trị cho trẻ sơ sinh, đặc biệt khi trẻ đang điều trị tại đơn vị chăm sóc tích cực. Khi tiêm tĩnh mạch, hiệu quả gần như tức thời. Hầu hết các loại thuốc tiêm tĩnh mạch cho trẻ sơ sinh có những yêu cầu riêng về độ pha loãng và/hoặc tốc độ truyền.
Trong giai đoạn năm 2018-2021, Mạng lưới An toàn Chăm sóc Sức khỏe Quốc gia (NHSN) đã báo cáo rằng 0,4% (n = 1.951) các ca nhiễm trùng mắc phải tại bệnh viện (HAI) ở Hoa Kỳ nguyên nhân do Acinetobacter spp. gây ra. Trong số này có 28-45% không nhạy cảm với kháng sinh carbapenem (tức là trung gian hoặc đề kháng).
Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng (RCT), BLING III cung cấp bằng chứng việc sử dụng truyền liên tục (CI) so với truyền ngắt quãng piperacillin/tazobactam và meropenem trên bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Điều này được củng cố bởi một đánh giá tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp (SRMA) của 18 RCT về CI hoặc truyền kéo dài (EI) (thời gian từ 3–4 giờ) các kháng sinh beta-lactam. Thách thức hiện nay là chuyển đổi CI như một tiêu chuẩn chăm sóc cho bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Các cân nhắc chính bao gồm các vấn đề sau: