Dụng cụ tử cung phóng thích levonorgestrel và nguy cơ ung thư vú
Lược dịch
Việc sử dụng hệ thống phóng thích Levonorgestrel trong tử cung (LNG-IUS: Levonorgestrel-releasing intrauterine system) có liên quan đến tăng nguy cơ ung thư vú. Một nghiên cứu ở Đan Mạch ghi nhận 14 trường hợp ung thư vú trên 10.000 phụ nữ tránh thai bằng LNG-IUS so với phụ nữ tránh thai không dùng nội tiết.
Phương pháp nghiên cứu
- Các nhà nghiên cứu đã sử dụng dữ liệu dân cư Quốc gia tại Đan Mạch để xác định tất cả phụ nữ trong độ tuổi từ 15 đến 49, được chỉ định sử dụng LNG-IUS lần đầu từ năm 2000 đến năm 2019.
- Ghép cặp 78.595 phụ nữ mới bắt đầu dùng LNG-IUS với những phụ nữ cùng tuổi không sử dụng biện pháp tránh thai nội tiết theo tỷ lệ 1:1.
- Theo dõi những phụ nữ tham gia nghiên cứu đến năm 2022 hoặc đến khi được chẩn đoán mắc ung thư vú, bệnh lý ác tính khác, mang thai, bắt đầu liệu pháp nội tiết sau mãn kinh, di cư hay tử vong.
- Mô hình phân tích nguy cơ tỷ lệ Cox được sử dụng để kiểm tra mối liên quan giữa việc sử dụng LNG-IUS liên tục và nguy cơ ung thư vú. Phân tích này đã hiệu chỉnh các biến số bao gồm thời gian sử dụng biện pháp tránh thai nội tiết trước đó, thuốc hỗ trợ sinh sản, số lần sinh, tuổi sinh con đầu lòng, hội chứng buồng trứng đa nang, lạc nội mạc tử cung và trình độ học vấn.
Tóm tắt kết quả
- So với phụ nữ không sử dụng biện pháp tránh thai nội tiết, việc sử dụng LNG-IUS liên tục có liên quan đến tỷ lệ nguy cơ mắc ung thư vú là 1,4 (95% CI, 1,2-1,5).
- Việc tránh thai bằng LNG-IUS trong 5 năm hoặc ít hơn, có liên quan đến tỷ lệ nguy cơ mắc ung thư vú là 1,3 (95% CI, 1,1-1,5). Sử dụng LNG-IUS trong 5-10 năm, tỷ lệ nguy cơ này là 1,4 (95% CI, 1,1-1,7). Sử dụng trong 10-15 năm, tỷ lệ nguy cơ này là 1,8 (95% CI, 1,2-2,6). Tuy nhiên, thử nghiệm về xu hướng không có ý nghĩa, do đó nguy cơ này không tăng theo thời gian sử dụng.
Tóm lại, kết quả của nghiên cứu này đã cung cấp thêm dữ liệu về nguy cơ ung thư vú có thể tăng nhẹ khi sử dụng LNG-IUS để tránh thai, tương tự như các thuốc tránh thai nội tiết chứa estrogen-progestin khác.
Tài liệu tham khảo
- Medscape. ‘Small Increase’ in Breast Cancer With Levonorgestrel IUD?. Updated October 24, 2024. May 20, 2025.https://www.medscape.com/viewarticle/small-increase-breast-cancer-levonorgestrel-iud-2024a1000jgs
- Uptodate. Intrauterine contraception: Background and device. Updated Mar 21, 2025. May 20, 2025. https://www.uptodate.com.
Trong bản dự thảo cuối cùng, Viện Y tế và Chất lượng Điều trị Quốc gia Anh (NICE) cho biết relugolix-estradiol-norethisterone là một lựa chọn để điều trị các triệu chứng lạc nội mạc tử cung ở những người phụ nữ trưởng thành đang trong độ tuổi sinh sản, nhưng không đáp ứng với phương pháp điều trị nội khoa hoặc phẫu thuật trước đó.
Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC), có khoảng 10% bệnh nhân tại Mỹ được báo cáo bị dị ứng penicillin. Tuy nhiên, dưới 1% bị dị ứng qua trung gian IgE (loại 1) và các nhà nghiên cứu lưu ý rằng, khoảng 80% bệnh nhân này sẽ mất độ nhạy cảm sau 10 năm. Hơn nữa, CDC khuyến nghị cần xác định những bệnh nhân không thực sự dị ứng penicillin để giảm việc sử dụng kháng sinh phổ rộng không cần thiết. Phản ứng chéo giữa penicillin và cephalosporinlà rất hiếm, nhưng nhiều bác sĩ tránh kê đơn cephalosporin cho bệnh nhân bị dị ứng penicillin, dẫn đến tăng cường sử dụng các loại kháng sinh khác như là quinolon, macrolid, clindamycin, carbapenem và vancomycin, thường gặp nhiều tác dụng phụ hơn, tăng chi phí chăm sóc sức khỏe và góp phần vào tình trạng đề kháng kháng sinh
Độc tính trên thận do thuốc là nguyên nhân phổ biến gây ra tổn thương thận cấp tính (AKI) và kháng sinh (KS) là một trong những nhóm thuốc lớn nhất liên quan đến AKI. Cơ chế gây độc tính trên thận do KS bao gồm tổn thương cầu thận, tổn thương hoặc rối loạn chức năng ống thận, tắc nghẽn ống lượn xa do trụ niệu và viêm thận kẽ cấp tính (AIN) do phản ứng quá mẫn loại IV (loại chậm). Các biểu hiện lâm sàng của độc tính trên thận do KS bao gồm hoại tử ống thận cấp (ATN), AIN và hội chứng Fanconi.
Trong 6 tháng đầu năm 2025, Bệnh viện Từ Dũ ghi nhận 204 báo cáo ADR, tăng 1,3 lần so với cùng kỳ năm 2024 (160 báo cáo).
Theo kết quả của một nghiên cứu trên JAMA Network Open, tiêm vắc-xin cúm không liên quan đến việc tăng nguy cơ mắc các kết quả bất lợi trong thời kỳ chu sinh đối với những người mang thai liên tiếp. Các tác giả nghiên cứu cho biết những phát hiện này ủng hộ các khuyến nghị hiện tại cho những người mang thai hoặc những người có thể mang thai trong mùa cúm.
Staphylococcus aureus, một loại vi khuẩn gram dương, là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong do nhiễm trùng huyết trên toàn thế giới, với tỷ lệ tử vong từ 15% đến 30% và ước tính có 300.000 ca tử vong mỗi năm.