FDA chấp thuận Durvalumab phối hợp với hóa trị trong điều trị ung thư nội mạc tử cung
DS. Trần Thị Thu Hiền - Lược dịch
Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) đã chấp thuận durvalumab (Imfinzi) kết hợp với carboplatin và paclitaxel, duy trì điều trị bằng durvalumab đơn trị cho người bệnh mắc ung thư nội mạc tử cung giai đoạn tiến triển hoặc tái phát có thiếu hụt protein sửa chữa bắt cặp sai (dMMR).
Hình. Ung thư nội mạc tử cung
Ung thư nội mạc tử cung là loại ung thư phổ biến đứng hàng thứ sáu ở phụ nữ trên thế giới, bệnh thường gặp ở phụ nữ sau mãn kinh, với độ tuổi từ 60 trở lên. Các nhà nghiên cứu lưu ý rằng, bệnh bắt đầu từ tế bào nội mạc tử cung và lớp nội mạc tăng sinh không đồng nhất. Hầu hết, các trường hợp được chẩn đoán ở giai đoạn sớm và thường được điều trị bằng phẫu thuật và/hoặc xạ trị, đạt tỷ lệ sống sau 5 năm từ 80% đến 90%. Tuy nhiên, nếu được chẩn đoán giai đoạn tiến triển, tỷ lệ sống sót sau 5 năm giảm dưới 20%.
Theo Dave Fredrickson, Phó Chủ tịch điều hành Đơn vị kinh doanh bệnh Ung thư của AstraZeneca: “Trong vài thập niên gần đây, có rất ít những cải tiến trong điều trị ung thư nội mạc tử cung, tiếp tục đổi mới là rất quan trọng vì gánh nặng bệnh ung thư này được dự đoán sẽ tăng trong tương lai. Liệu pháp miễn dịch kết hợp với hóa trị đang tăng lên như một tiêu chuẩn chăm sóc mới, durvalumab là một lựa chọn mới rất quan trọng cho người bệnh có thiếu hụt protein sửa chữa bắt cặp sai”.
Năm 2022, có gần 12.000 ca tử vong trong số 66.000 người được chẩn đoán. Hơn nữa, các nhà nghiên cứu dự đoán rằng sự gia tăng tỷ lệ mắc và tử vong của ung thư nội mạc tử cung vào năm 2050, từ 61% đến 87%. Đồng thời, nhấn mạnh sự cần thiết có nhiều lựa chọn mới trong điều trị khi tăng từ 20% đến 30% người mắc bệnh có dMMR.
Durvalumab là một kháng thể đơn dòng ở người, gắn kết với protein PD-L1 và ngăn sự tương tác của PD-L1 với các protein PD-1 và CD8, do đó chống lại sự tấn công miễn dịch của khối u và làm thay đổi phản ứng miễn dịch. Trước khi được sự chấp thuận này, durvalumab được sử dụng điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ, ung thư phổi tế bào nhỏ giai đoạn lan rộng, ung thư ống mật, ung thư túi mật và ung thư biểu mô tế bào gan không phẫu thuật.
Sự chấp thuận dựa trên kết quả từ thử nghiệm DUO-E: 3 nhóm thử nghiệm, ngẫu nhiên, mù đôi, nhóm chứng giả dược, đa trung tâm, giai đoạn 3. Nghiên cứu đánh giá, durvalumab là một phương pháp điều trị đầu tay khi kết hợp với phác đồ hóa trị có platinum (carboplatin và paclitaxel), tiếp theo duy trì durvalumab đơn trị hoặc durvalumab phối hợp với olaparid so với hóa trị liệu.
Thử nghiệm có 699 người bệnh, được chẩn đoán mới mắc ung thư biểu mô nội mạc tử cung giai đoạn tiến triển hoặc tái phát có chỉ định liều durvalumab 1.120 mg hoặc giả dược, tiếp theo sau là hóa trị. Sau 4 đến 6 chu kỳ hóa trị, liều duy trì durvalumab là 1.500 mg có hoặc không có olaparid 300 mg so với giả dược.
Kết quả cho thấy durvalumab phối hợp với carboplatin và paclitaxel, liệu pháp duy trì durvalumab đơn trị làm giảm đến 58% nguy cơ bệnh tiến triển hoặc tử vong ở người bệnh mắc ung thư nội mạc tử cung có dMMR so với hóa trị.
Shannon N. Westin, Giáo sư Ung thư Phụ khoa và Y học Sinh sản Trung tâm Ung thư MD Anderson của Đại học Texas nhấn mạnh rằng: Sự chấp thuận này mang lại những lợi ích quan trọng trên lâm sàng cho người bệnh mắc ung thư nội mạc tử cung có dMMR.
Tài liệu tham khảo:
FDA Approves Durvalumab Plus Chemotherapy to Treat Endometrial Cancer. Pharmacytimes. June 27, 2024. Accessed on 16/7/2024. https://www.pharmacytimes.com/view/fda-approves-durvalumab-plus-chemotherapy-to-treat-endometrial-cancer.
Acetaminophen (paracetamol) đã được sử dụng để hạ sốt và giảm đau từ nhẹ đến trung bình. Thuốc có sẵn ở dạng đơn chất hoặc kết hợp với các thuốc khác để điều trị các triệu chứng cảm lạnh, cúm, đau đầu và viêm xương khớp. Tên thương mại phổ biến là Tylenol. Theo Tạp chí Wall Street Journal đưa tin, Bộ trưởng Y tế Hoa Kỳ dự định thông tin về mối liên quan giữa chứng tự kỷ và việc phơi nhiễm với thuốc giảm đau và hạ sốt Tylenol trước khi sinh, như sau:
Tiêm chủng cho mẹ giúp bảo vệ cả mẹ và thai nhi khỏi một số bệnh nhiễm trùng. Lý tưởng nhất là tiêm chủng trước khi thụ thai, nhưng trong một số trường hợp, việc tiêm chủng trong thai kỳ cũng được chỉ định.
Nhiều bằng chứng cho thấy rằng, việc sử dụng kháng sinh ở bệnh nhân tiên lượng nặng bị suy thận cấp (STC) thường không đạt được mục tiêu dược lực học và tỉ lệ tử vong cao liên quan đến nhiễm trùng. Do đó, bài viết này đánh giá những thay đổi thông số về dược động học và dược lực học trên bệnh nhân nặng có STC và đề xuất những giải pháp để có thể tối ưu liều dùng kháng sinh trên những bệnh nhân này.
Trong bản dự thảo cuối cùng, Viện Y tế và Chất lượng Điều trị Quốc gia Anh (NICE) cho biết relugolix-estradiol-norethisterone là một lựa chọn để điều trị các triệu chứng lạc nội mạc tử cung ở những người phụ nữ trưởng thành đang trong độ tuổi sinh sản, nhưng không đáp ứng với phương pháp điều trị nội khoa hoặc phẫu thuật trước đó.
Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC), có khoảng 10% bệnh nhân tại Mỹ được báo cáo bị dị ứng penicillin. Tuy nhiên, dưới 1% bị dị ứng qua trung gian IgE (loại 1) và các nhà nghiên cứu lưu ý rằng, khoảng 80% bệnh nhân này sẽ mất độ nhạy cảm sau 10 năm. Hơn nữa, CDC khuyến nghị cần xác định những bệnh nhân không thực sự dị ứng penicillin để giảm việc sử dụng kháng sinh phổ rộng không cần thiết. Phản ứng chéo giữa penicillin và cephalosporinlà rất hiếm, nhưng nhiều bác sĩ tránh kê đơn cephalosporin cho bệnh nhân bị dị ứng penicillin, dẫn đến tăng cường sử dụng các loại kháng sinh khác như là quinolon, macrolid, clindamycin, carbapenem và vancomycin, thường gặp nhiều tác dụng phụ hơn, tăng chi phí chăm sóc sức khỏe và góp phần vào tình trạng đề kháng kháng sinh
Độc tính trên thận do thuốc là nguyên nhân phổ biến gây ra tổn thương thận cấp tính (AKI) và kháng sinh (KS) là một trong những nhóm thuốc lớn nhất liên quan đến AKI. Cơ chế gây độc tính trên thận do KS bao gồm tổn thương cầu thận, tổn thương hoặc rối loạn chức năng ống thận, tắc nghẽn ống lượn xa do trụ niệu và viêm thận kẽ cấp tính (AIN) do phản ứng quá mẫn loại IV (loại chậm). Các biểu hiện lâm sàng của độc tính trên thận do KS bao gồm hoại tử ống thận cấp (ATN), AIN và hội chứng Fanconi.