FDA chấp thuận liệu pháp điều trị đầu tiên không dùng nội tiết tố cho cơn bốc hỏa liên quan đến thời kỳ mãn kinh
DS. Nguyễn Tấn Xuân Trang (lược dịch)
Khoa Dược – BV Từ Dũ
FDA đã chấp thuận Brisdelle (paroxetine) để điều trị cơn bốc hỏa (triệu chứng vận mạch) mức độ từ trung bình đến nặng liên quan đến thời kỳ mãn kinh. Brisdelle, chứa hoạt chất paroxetine mesylate với cơ chế ức chế tái hấp thu chọn lọc serotonin, hiện đang là thuốc duy nhất để điều trị cơn bốc hỏa không bằng nội tiết được FDA chấp thuận.
Có rất nhiều thuốc điều trị được FDA chấp thuận cho cơn bốc hỏa, nhưng tất cả đều chứa estrogen hoặc estrogen phối hợp với progestin.
Cơn bốc hỏa do mãn kinh thường xảy ra trên 75% phụ nữ và có thể kéo dài đến 5 năm hoặc thậm chí lâu hơn. Cơn bốc hỏa không đe dọa tính mạng nhưng các triệu chứng của nó rất khó chịu, gây sự bực dọc, mất ngủ.
Sự an toàn và hiệu quả của Brisdelle đã được xác định trong hai nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi, có nhóm chứng với tổng số trên 1.175 phụ nữ sau mãn kinh có cơn bốc hỏa từ trung bình đến nặng (tối thiểu là 7 – 8 lần/ ngày hoặc 50 – 60/ tuần). Thời gian điều trị kéo dài 12 tuần trong một nghiên cứu và 24 tuần trong nghiên cứu còn lại. Kết quả cho thấy Brisdelle làm giảm cơn bốc hỏa so với giả dược. Cơ chế tác dụng của Brisdelle vẫn chưa được hiểu rõ.
Các tác dụng phụ thường gặp nhất ở những bệnh nhân được điều trị bằng Brisdelle là nhức đầu, mệt mỏi và buồn nôn/nôn.
Brisdelle chứa 7,5 mg paroxetin và dùng mỗi ngày một lần trước khi đi ngủ. Các thuốc khác như Paxil và Pexeva cũng chứa paroxetine nhưng với hàm lượng cao hơn được chấp thuận để điều trị các bệnh khác như rối loạn trầm cảm, rối loạn ám ảnh cưỡng chế, rối loạn hoảng sợ và rối loạn lo âu. Tất cả các loại thuốc được chấp thuận cho điều trị trầm cảm, bao gồm cả Paxil và Pexeva, đều có cảnh báo làm tăng nguy cơ tự tử ở trẻ em và thanh thiếu niên. Vì Brisdelle chứa thành phần hoạt chất tương tự như Paxil và Pexeva nên cũng có cảnh báo này.
Các cảnh báo khác trên nhãn bao gồm: có thể giảm hiệu quả của tamoxifen nếu sử dụng đồng thời 2 thuốc này với nhau, làm tăng nguy cơ chảy máu và hội chứng serotonin (các dấu hiệu và triệu chứng có thể gặp như lẫn lộn, nhịp tim nhanh, huyết áp cao).
Tài liệu tham khảo:
http://www.fda.gov/NewsEvents/Newsroom/PressAnnouncements/ucm359030.htm
Acetaminophen (paracetamol) đã được sử dụng để hạ sốt và giảm đau từ nhẹ đến trung bình. Thuốc có sẵn ở dạng đơn chất hoặc kết hợp với các thuốc khác để điều trị các triệu chứng cảm lạnh, cúm, đau đầu và viêm xương khớp. Tên thương mại phổ biến là Tylenol. Theo Tạp chí Wall Street Journal đưa tin, Bộ trưởng Y tế Hoa Kỳ dự định thông tin về mối liên quan giữa chứng tự kỷ và việc phơi nhiễm với thuốc giảm đau và hạ sốt Tylenol trước khi sinh, như sau:
Tiêm chủng cho mẹ giúp bảo vệ cả mẹ và thai nhi khỏi một số bệnh nhiễm trùng. Lý tưởng nhất là tiêm chủng trước khi thụ thai, nhưng trong một số trường hợp, việc tiêm chủng trong thai kỳ cũng được chỉ định.
Nhiều bằng chứng cho thấy rằng, việc sử dụng kháng sinh ở bệnh nhân tiên lượng nặng bị suy thận cấp (STC) thường không đạt được mục tiêu dược lực học và tỉ lệ tử vong cao liên quan đến nhiễm trùng. Do đó, bài viết này đánh giá những thay đổi thông số về dược động học và dược lực học trên bệnh nhân nặng có STC và đề xuất những giải pháp để có thể tối ưu liều dùng kháng sinh trên những bệnh nhân này.
Trong bản dự thảo cuối cùng, Viện Y tế và Chất lượng Điều trị Quốc gia Anh (NICE) cho biết relugolix-estradiol-norethisterone là một lựa chọn để điều trị các triệu chứng lạc nội mạc tử cung ở những người phụ nữ trưởng thành đang trong độ tuổi sinh sản, nhưng không đáp ứng với phương pháp điều trị nội khoa hoặc phẫu thuật trước đó.
Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC), có khoảng 10% bệnh nhân tại Mỹ được báo cáo bị dị ứng penicillin. Tuy nhiên, dưới 1% bị dị ứng qua trung gian IgE (loại 1) và các nhà nghiên cứu lưu ý rằng, khoảng 80% bệnh nhân này sẽ mất độ nhạy cảm sau 10 năm. Hơn nữa, CDC khuyến nghị cần xác định những bệnh nhân không thực sự dị ứng penicillin để giảm việc sử dụng kháng sinh phổ rộng không cần thiết. Phản ứng chéo giữa penicillin và cephalosporinlà rất hiếm, nhưng nhiều bác sĩ tránh kê đơn cephalosporin cho bệnh nhân bị dị ứng penicillin, dẫn đến tăng cường sử dụng các loại kháng sinh khác như là quinolon, macrolid, clindamycin, carbapenem và vancomycin, thường gặp nhiều tác dụng phụ hơn, tăng chi phí chăm sóc sức khỏe và góp phần vào tình trạng đề kháng kháng sinh
Độc tính trên thận do thuốc là nguyên nhân phổ biến gây ra tổn thương thận cấp tính (AKI) và kháng sinh (KS) là một trong những nhóm thuốc lớn nhất liên quan đến AKI. Cơ chế gây độc tính trên thận do KS bao gồm tổn thương cầu thận, tổn thương hoặc rối loạn chức năng ống thận, tắc nghẽn ống lượn xa do trụ niệu và viêm thận kẽ cấp tính (AIN) do phản ứng quá mẫn loại IV (loại chậm). Các biểu hiện lâm sàng của độc tính trên thận do KS bao gồm hoại tử ống thận cấp (ATN), AIN và hội chứng Fanconi.