FDA công nhận Diclegis là thuốc điều trị nghén đầu tiên trong vòng 30 năm qua
DS. Hoàng Thị Vinh (dịch)
Khoa Dược - BV Từ Dũ
Cục quản lý dược và thực phẩm Hoa kỳ (FDA) ngày 09 tháng 4 đã công nhận thuốc kết hợp doxylamine và pyridoxine (Diclegis, Duchsnay) để điều trị buồn nôn và nôn ở những thai phụ không đáp ứng đầy đủ với sự thay đổi chế độ ăn uống hay thay đổi lối sống.
Điều trị bảo toàn trong “ ốm nghén” bao gồm ăn nhiều bữa nhỏ trong ngày thay vì ăn bữa lớn, ăn những thức ăn nhẹ, có ít chất béo và dễ tiêu hóa, và tránh những mùi có thể gây nôn. Tuy nhiên, theo bác sĩ Hylton Joffe, trưởng bộ phận các sản phẩm về sinh sản và niệu thuộc Trung tâm nghiên cứu và lượng giá thuốc của FDA, những biện pháp điều trị không dùng thuốc này thường không đủ. Hiện nay, Diclegis là thuốc duy nhất được FDA công nhận để điều trị buồn nôn và nôn trong thai kỳ, đem đến một lựa chọn cho những phụ nữ mang thai mong muốn thoát khỏi những triệu chứng này.
FDA khuyến cáo liều khởi đầu hằng ngày lúc đi ngủ và bụng rỗng. Liều dùng có thể tăng lên đến tối đa 4 liều mỗi ngày - một vào buổi sáng, một ở giữa trưa, và 2 trước khi đi ngủ - nếu cần thiết.
Diclegis trước đây đã được bán tại Mỹ với thương hiệu Bendectin từ năm 1956 đến năm 1983, nhưng nó đã bị rút khỏi thị trường vì các vụ kiện tụng về dị tật bẩm sinh. Mặc dù nghiên cứu sau đó cho thấy những mối lo ngại không được chứng minh, nhà sản xuất trước đây - công ty dược phẩm Merrell Dow - đã từ chối tiếp tục sản xuất thuốc do chi phí bảo vệ thuốc cao.
Bác sĩ Edward McCabe, giám đốc y khoa của tổ chức March of Dimes, phát biểu rằng tỷ lệ dị tật ở trẻ sinh ra là tương tự giữa những phụ nữ sử dụng thuốc và trong dân số nói chung, tạo ra ấn tượng sai lầm rằng thuốc này gây ra các dị tật bẩm sinh. Sau khi thuốc này bị thu hồi, không có thuốc nào điều trị nghén tốt hơn. Tại thời điểm đó, FDA tiếp tục cho rằng thuốc này an toàn.
Trên thực tế, các nhà lâm sàng đã kê đơn 2 thành phần có hoạt tính của thuốc trong nhiều năm. Pyridoxine là một dạng của vitamin B6, và doxylamine là một chất kháng histamin. Lợi ích của thuốc kết hợp mới được phê duyệt là dạng bào chế phóng thích kéo dài, do đó, thuốc ngăn chặn tình trạng ốm nghén trước khi triệu chứng bắt đầu xảy ra.
Theo nhà sản xuất Diclegis, hãng Duchesnay, sự kết hợp đã được Hướng dẫn của Hiệp hội sản phụ khoa Hoa Kỳ khuyến cáo là biện pháp điều trị bằng thuốc hàng đầu trong 9 năm qua. Công ty dược phẩm Canada này cũng đã bán một phiên bản generic tại Canada với tên gọi Diclectin.
FDA đã xác minh hiệu quả của doxylamine-pyridoxine trên cơ sở một thử nghiệm lâm sàng liên quan đến 261 phụ nữ mang thai bị buồn nôn và nôn. Những phụ nữ được sử dụng ngẫu nhiên doxylamine-pyridoxine trong 2 tuần cho thấy có sự cải thiện triệu chứng nhiều hơn so với những người dùng giả dược. Thành phần hoạt tính của thuốc cũng không gây bất kỳ sự gia tăng nguy cơ có hại nào cho thai nhi trong các nghiên cứu dịch tễ học.
Các tác dụng phụ thường gặp nhất với Doxylamine-pyridoxine là buồn ngủ, tác dụng phụ này có thể nghiêm trọng.
Theo Duchesnay, Diclegis dự kiến sẽ có mặt vào cuối tháng 5.
Nguồn:
FDA Approves Diclegis as First Morning Sickness Drug in Years,
Medscape Pharmacist.
Acetaminophen (paracetamol) đã được sử dụng để hạ sốt và giảm đau từ nhẹ đến trung bình. Thuốc có sẵn ở dạng đơn chất hoặc kết hợp với các thuốc khác để điều trị các triệu chứng cảm lạnh, cúm, đau đầu và viêm xương khớp. Tên thương mại phổ biến là Tylenol. Theo Tạp chí Wall Street Journal đưa tin, Bộ trưởng Y tế Hoa Kỳ dự định thông tin về mối liên quan giữa chứng tự kỷ và việc phơi nhiễm với thuốc giảm đau và hạ sốt Tylenol trước khi sinh, như sau:
Tiêm chủng cho mẹ giúp bảo vệ cả mẹ và thai nhi khỏi một số bệnh nhiễm trùng. Lý tưởng nhất là tiêm chủng trước khi thụ thai, nhưng trong một số trường hợp, việc tiêm chủng trong thai kỳ cũng được chỉ định.
Nhiều bằng chứng cho thấy rằng, việc sử dụng kháng sinh ở bệnh nhân tiên lượng nặng bị suy thận cấp (STC) thường không đạt được mục tiêu dược lực học và tỉ lệ tử vong cao liên quan đến nhiễm trùng. Do đó, bài viết này đánh giá những thay đổi thông số về dược động học và dược lực học trên bệnh nhân nặng có STC và đề xuất những giải pháp để có thể tối ưu liều dùng kháng sinh trên những bệnh nhân này.
Trong bản dự thảo cuối cùng, Viện Y tế và Chất lượng Điều trị Quốc gia Anh (NICE) cho biết relugolix-estradiol-norethisterone là một lựa chọn để điều trị các triệu chứng lạc nội mạc tử cung ở những người phụ nữ trưởng thành đang trong độ tuổi sinh sản, nhưng không đáp ứng với phương pháp điều trị nội khoa hoặc phẫu thuật trước đó.
Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC), có khoảng 10% bệnh nhân tại Mỹ được báo cáo bị dị ứng penicillin. Tuy nhiên, dưới 1% bị dị ứng qua trung gian IgE (loại 1) và các nhà nghiên cứu lưu ý rằng, khoảng 80% bệnh nhân này sẽ mất độ nhạy cảm sau 10 năm. Hơn nữa, CDC khuyến nghị cần xác định những bệnh nhân không thực sự dị ứng penicillin để giảm việc sử dụng kháng sinh phổ rộng không cần thiết. Phản ứng chéo giữa penicillin và cephalosporinlà rất hiếm, nhưng nhiều bác sĩ tránh kê đơn cephalosporin cho bệnh nhân bị dị ứng penicillin, dẫn đến tăng cường sử dụng các loại kháng sinh khác như là quinolon, macrolid, clindamycin, carbapenem và vancomycin, thường gặp nhiều tác dụng phụ hơn, tăng chi phí chăm sóc sức khỏe và góp phần vào tình trạng đề kháng kháng sinh
Độc tính trên thận do thuốc là nguyên nhân phổ biến gây ra tổn thương thận cấp tính (AKI) và kháng sinh (KS) là một trong những nhóm thuốc lớn nhất liên quan đến AKI. Cơ chế gây độc tính trên thận do KS bao gồm tổn thương cầu thận, tổn thương hoặc rối loạn chức năng ống thận, tắc nghẽn ống lượn xa do trụ niệu và viêm thận kẽ cấp tính (AIN) do phản ứng quá mẫn loại IV (loại chậm). Các biểu hiện lâm sàng của độc tính trên thận do KS bao gồm hoại tử ống thận cấp (ATN), AIN và hội chứng Fanconi.