FDA đánh giá kết quả nghiên cứu việc sử dụng fluconazol đường uống trên thai kỳ
DS. Huỳnh Thị Hồng Gấm (Dịch)
Khoa Dược- BV Từ Dũ
VẤN ĐỀ
FDA đang đánh giá kết quả nghiên cứu của Đan Mạch về việc kết luận rằng sử dụng Fluconazol đường uống (Diflucan) cho nhiễm nấm có thể tăng nguy cơ sẩy thai. FDA cũng xem xét lại các dữ liệu bổ sung, sẽ đưa ra thông tin, kết luận cuối cùng và khuyến cáo khi hoàn thành việc xem xét.
Theo nhãn thuốc hiện tại được FDA cấp phép, các dữ liệu đã có từ nghiên cứu trên người không gợi ý sự tăng nguy cơ về các vấn đề trong suốt thai kỳ hoặc bất thường trong sự phát triển của thai nhi khi thai phụ tiếp xúc với liều đơn 150 mg Fluconazol đường uống trong điều trị nhiễm nấm âm đạo. Tuy nhiên, đã có báo cáo về bất thường trên thai nhi ở những thai phụ sử dụng Fluconazol đường uống liều cao (400-800 mg/ ngày) kéo dài hơn liều duy nhất. Trong nghiên cứu của Đan Mạch, phần lớn là sử dụng Fluconazol đường uống 1 hoặc 2 liều 150 mg.
CƠ SỞ
Fluconazol đường uống được sử dụng trong điều trị nhiễm nấm ở vùng âm đạo, miệng và thực quản. Thuốc này cũng được sử dụng trong điều trị nhiễm nấm ở não và tủy sống thường được gọi là viêm màng não do nấm Cryptococcus thường gây ảnh hưởng trên những người suy yếu hệ thống miễn dịch, và thuốc này cũng thường được dự phòng cho việc lây lan nhiễm nấm trên các bộ phận còn lại trên cơ thể bệnh nhân ung thư suy yếu hệ thống miễn dịch. Fluconazol đường uống được lưu hành dưới biệt dược là Diflucan và một số tên thuốc generic.
KHUYẾN CÁO
Cho đến khi FDA hoàn thành bài xem xét, hiểu sâu sắc hơn nghiên cứu này và các dữ liệu sẵn có khác, FDA khuyên phải thận trọng khi kê đơn Fluconazol đường uống trên thai kỳ.
Nguồn
http://www.fda.gov/Safety/MedWatch/SafetyInformation/SafetyAlertsforHumanMedicalProducts/ucm497656.htm
Các loài thuộc chi Candida là một phần của hệ vi sinh vật thường trú trong âm đạo có khoảng 25% ở phụ nữ, do vậy việc phát hiện nấm không đủ để chẩn đoán bệnh. Ước tính có 75% phụ nữ bị nhiễm nấm candida âm đạo ít nhất một lần trong đời. Nồng độ estrogen và tăng sản xuất glycogen ở âm đạo, tình trạng này xảy ra thường gặp và nghiêm trọng hơn trong thai kỳ. Trong thời kỳ mang thai, bệnh có liên quan đến những kết quả bất lợi trong sản khoa như vỡ ối sớm, chuyển dạ sớm, viêm màng ối, nhiễm nấm candida da ở trẻ sơ sinh và nhiễm trùng hậu sản 1. Bệnh viêm âm hộ-âm đạo do nấm candida là một trong những nguyên nhân phổ biến nhất có triệu chứng gây ngứa và tiết dịch âm đạo. Biểu hiện của bệnh là tình trạng viêm thường gặp ở các loài nấm Candida với các triệu chứng là ngứa và viêm đỏ.
Cách tốt nhất để bảo vệ chống lại bệnh sởi là tiêm vắc xin phòng ngừa sởi, quai bị và rubella (MMR). Trẻ em có thể tiêm vắc xin phòng ngừa sởi, quai bị, rubella và thủy đậu (MMRV) để thay thế. Hầu hết những người được tiêm vắc-xin MMR và MMRV sẽ được bảo vệ suốt đời.
Việc nhai, bẻ, nghiền các loại thuốc viên đôi khi cần thiết trong một số trường hợp. Tuy nhiên, các thuốc có dạng bào chế đặc biệt nếu bị nhai, bẻ, nghiền có thể ảnh hưởng đến tác dụng điều trị và tính an toàn của thuốc. Chẳng hạn như nếu nghiền viên phóng thích chậm hoặc phóng thích kéo dài sẽ gây phóng thích một lượng lớn hoạt chất tại một thời điểm nhất định, gây quá liều thuốc và gây nguy hiểm cho người bệnh. Nghiền viên bao tan trong ruột có thể làm cho thuốc bị bất hoạt ở dạ dày hoặc gây kích ứng cho đường tiêu hóa.
Cúm là một bệnh đường hô hấp cấp tính do vi-rút cúm A hoặc B gây ra, xảy ra thành các đợt bùng phát và dịch bệnh trên toàn thế giới, chủ yếu vào mùa đông. Tỷ lệ mắc bệnh và tử vong liên quan đến cúm cao hơn ở những phụ nữ mang thai và mới sinh (trong vòng hai tuần sau khi sinh hoặc sảy thai) so với dân số nói chung.
Probiotics được định nghĩa là “các vi sinh vật sống, khi được đưa vào cơ thể với số lượng đủ, sẽ mang lại lợi ích cho sức khỏe của vật chủ”. Các chủng vi khuẩn tạo axit lactic là quan trọng nhất trong thực phẩm và dinh dưỡng, chủng thuộc chi Lactobacillus và Bifidobacterium là những probiotic được sử dụng phổ biến nhất, ngoài ra còn kể đến các chi Bacillus, Streptococcus, Enterococcus, Saccharomyces và Escherichia coli
- Bệnh viện đã thực hiện 378 báo cáo ADR, giảm 7,9% so với năm 2023 (408 báo cáo), tăng 14,2% so với năm 2022 (331 báo cáo).
- Số lượng báo cáo ADR ngoại trú là 18 báo cáo, giảm 3,6 lần so với năm 2023 (66 báo cáo).
- Bệnh viện Từ Dũ được Trung tâm DI&ADR quốc gia xếp hạng 8/991 cơ sở khám chữa bệnh có hoạt động theo dõi ADR hiệu quả trong báo cáo tổng kết ADR quốc gia vào tháng 9/2024.