FDA khuyến cáo về tác dụng phụ của Paracetamol tháng 08/2013
DS. Đặng Thị Thuận Thảo
Khoa Dược – Bệnh viện Từ Dũ
Ngày 1/8/2013, FDA thông báo về thuốc Paracetamol có liên quan với nguy cơ gây phản ứng da nghiêm trọng hiếm gặp. Những phản ứng trên da bao gồm hội chứng Stevens-Johnson (SJS), hội chứng Lyell (TEN), và ngoại ban mụn mủ toàn thân cấp tính (AGEP) có thể gây tử vong. Paracetamol là một thuốc khá phổ biến thường dùng để điều trị đau và giảm sốt.
Những phản ứng như xuất hiện những đốm đỏ trên da, phát ban, mụn nước…có thể xảy ra khi sử dụng các thuốc có chứa Paracetamol. Những phản ứng này có thể xảy ra khi sử dụng lần đầu tiên hoặc những lần sau khi sử dụng Paracetamol. Các loại thuốc khác được sử dụng để điều trị sốt và đau (ví dụ như các loại thuốc kháng viêm không steroid, như ibuprofen và naproxen) cũng có thể có nguy cơ gây ra các phản ứng da nghiêm trọng, đã được mô tả trong phần cảnh báo trên nhãn thuốc.
Khi có phát ban trên da hoặc bất kỳ phản ứng có hại nào khi sử dụng Paracetamol hoặc bất kỳ thuốc giảm đau nên ngừng thuốc và đi khám bác sĩ ngay lập tức. Nếu đã từng bị phản ứng da nghiêm trọng với Paracetamol thì không nên sử dụng thuốc này nữa và thay thế bằng thuốc giảm đau hạ sốt khác.
Rất khó để xác định mức độ thường xuyên xuất hiện phản ứng da nghiêm trọng với Paracetamol, do việc sử dụng rộng rãi thuốc này, sự khác biệt trong việc sử dụng giữa các cá nhân (ví dụ, sử dụng thường xuyên, hay lâu dài), và khoảng thời gian thuốc này có mặt trên thị trường, tuy nhiên những phản ứng da nghiêm trọng như SJS, TEN, và AGEP hiếm khi xảy ra.
FDA yêu cầu cảnh báo về nguy cơ phản ứng da nghiêm trọng được thêm vào nhãn những thuốc có chứa Paracetamol.
Tài liệu tham khảo
FDA (2013), FDA warns of rare but serious skin reactions with the pain reliever/fever reducer acetaminophen, FDA Drug Safety Communication
Các loài thuộc chi Candida là một phần của hệ vi sinh vật thường trú trong âm đạo có khoảng 25% ở phụ nữ, do vậy việc phát hiện nấm không đủ để chẩn đoán bệnh. Ước tính có 75% phụ nữ bị nhiễm nấm candida âm đạo ít nhất một lần trong đời. Nồng độ estrogen và tăng sản xuất glycogen ở âm đạo, tình trạng này xảy ra thường gặp và nghiêm trọng hơn trong thai kỳ. Trong thời kỳ mang thai, bệnh có liên quan đến những kết quả bất lợi trong sản khoa như vỡ ối sớm, chuyển dạ sớm, viêm màng ối, nhiễm nấm candida da ở trẻ sơ sinh và nhiễm trùng hậu sản 1. Bệnh viêm âm hộ-âm đạo do nấm candida là một trong những nguyên nhân phổ biến nhất có triệu chứng gây ngứa và tiết dịch âm đạo. Biểu hiện của bệnh là tình trạng viêm thường gặp ở các loài nấm Candida với các triệu chứng là ngứa và viêm đỏ.
Cách tốt nhất để bảo vệ chống lại bệnh sởi là tiêm vắc xin phòng ngừa sởi, quai bị và rubella (MMR). Trẻ em có thể tiêm vắc xin phòng ngừa sởi, quai bị, rubella và thủy đậu (MMRV) để thay thế. Hầu hết những người được tiêm vắc-xin MMR và MMRV sẽ được bảo vệ suốt đời.
Việc nhai, bẻ, nghiền các loại thuốc viên đôi khi cần thiết trong một số trường hợp. Tuy nhiên, các thuốc có dạng bào chế đặc biệt nếu bị nhai, bẻ, nghiền có thể ảnh hưởng đến tác dụng điều trị và tính an toàn của thuốc. Chẳng hạn như nếu nghiền viên phóng thích chậm hoặc phóng thích kéo dài sẽ gây phóng thích một lượng lớn hoạt chất tại một thời điểm nhất định, gây quá liều thuốc và gây nguy hiểm cho người bệnh. Nghiền viên bao tan trong ruột có thể làm cho thuốc bị bất hoạt ở dạ dày hoặc gây kích ứng cho đường tiêu hóa.
Cúm là một bệnh đường hô hấp cấp tính do vi-rút cúm A hoặc B gây ra, xảy ra thành các đợt bùng phát và dịch bệnh trên toàn thế giới, chủ yếu vào mùa đông. Tỷ lệ mắc bệnh và tử vong liên quan đến cúm cao hơn ở những phụ nữ mang thai và mới sinh (trong vòng hai tuần sau khi sinh hoặc sảy thai) so với dân số nói chung.
Probiotics được định nghĩa là “các vi sinh vật sống, khi được đưa vào cơ thể với số lượng đủ, sẽ mang lại lợi ích cho sức khỏe của vật chủ”. Các chủng vi khuẩn tạo axit lactic là quan trọng nhất trong thực phẩm và dinh dưỡng, chủng thuộc chi Lactobacillus và Bifidobacterium là những probiotic được sử dụng phổ biến nhất, ngoài ra còn kể đến các chi Bacillus, Streptococcus, Enterococcus, Saccharomyces và Escherichia coli
- Bệnh viện đã thực hiện 378 báo cáo ADR, giảm 7,9% so với năm 2023 (408 báo cáo), tăng 14,2% so với năm 2022 (331 báo cáo).
- Số lượng báo cáo ADR ngoại trú là 18 báo cáo, giảm 3,6 lần so với năm 2023 (66 báo cáo).
- Bệnh viện Từ Dũ được Trung tâm DI&ADR quốc gia xếp hạng 8/991 cơ sở khám chữa bệnh có hoạt động theo dõi ADR hiệu quả trong báo cáo tổng kết ADR quốc gia vào tháng 9/2024.