FDA phê chuẩn thuốc HIV mới
![]() |
Thuốc HIV mới là sự kết hợp của 4 loại thuốc.
Cơ quan Quản lý Thuốc và thực phẩm Hoa Kỳ phê chuẩn loại thuốc viên mới để điều trị nhiễm HIV kết hợp 4 loại thuốc và chỉ phải uống 1 lần/ngày.
Stribild, sẽ được bán trên thị trường bởi nhà sản xuất Gilead Sciences, chứa 4 loại thuốc điều trị HIV là elvitegravir, cobicistat, emtricitabine và tenofovir disoproxil fumarate. Thuốc sẽ được kê cho những người chưa bao giờ được điều trị nhiễm HIV.
Hai trong số 4 loại thuốc, elvitegravir và cobicistat là thuốc mới. Elvitegravir gây cản trở một trong số các enzym mà HIV cần để nhân lên, trong khi cobicistat ức chế một enzym chuyển hóa một số thuốc HIV và do đó kéo dài tác dụng của elvitegravir. Sự kết hợp giữa emtricitabine và tenofovir disoproxil fumarate chính là thuốc Truvada đã được bán trên thị trường, và 2 loại thuốc đó đã kết hợp với nhau để ngăn chặn một enzym mà HIV cần để tái tạo.
TS. Edward Cox, Giám đốc Văn phòng các sản phẩm kháng sinh tại Trung tâm Nghiên cứu và đánh giá thuốc của FDA nói: "Cho dù tiếp tục nghiên cứu và phát triển thuốc, việc điều trị cho những người nhiễm HIV đã phát triển từ phác đồ nhiều loại thuốc đến phác đồ một loại thuốc". Sự kết hợp các thuốc HIV mới như Stribild giúp đơn giản hóa phác đồ điều trị".
Hai thử nghiệm lâm sàng cho thấy 88-90% bệnh nhân được điều trị bằng Stribild có lượng virus HIV trong máu không thể phát hiện sau 48 tuần điều trị.
Thuốc này sẽ mang hộp cảnh báo rằng nó có thể gây tích lũy acid lactic trong máu và các rối loạn gan nghiêm trọng, cả hai đều có thể gây tử vong. Trong các thử nghiệm lâm sàng, các tác dụng phụ thường gặp bao gồm buồn nôn và tiêu chảy. Tác dụng phụ nghiêm trọng bao gồm các rối loạn thận mới hoặc trầm trọng hơn, giảm mật độ khoáng chất xương, tái phân bố chất béo và những thay đổi trong hệ miễn dịch.
Gilead (có trụ sở tại Foster City, California) phải tiến hành nhiều nghiên cứu hơn nữa để xác định độ an toàn của thuốc ở phụ nữ và trẻ em, kháng Stribild phát triển như thế nào và có thể tương tác với các thuốc khác không.
Theo Cimsi
Độc tính trên thận do thuốc là nguyên nhân phổ biến gây ra tổn thương thận cấp tính (AKI) và kháng sinh (KS) là một trong những nhóm thuốc lớn nhất liên quan đến AKI. Cơ chế gây độc tính trên thận do KS bao gồm tổn thương cầu thận, tổn thương hoặc rối loạn chức năng ống thận, tắc nghẽn ống lượn xa do trụ niệu và viêm thận kẽ cấp tính (AIN) do phản ứng quá mẫn loại IV (loại chậm). Các biểu hiện lâm sàng của độc tính trên thận do KS bao gồm hoại tử ống thận cấp (ATN), AIN và hội chứng Fanconi.
Trong 6 tháng đầu năm 2025, Bệnh viện Từ Dũ ghi nhận 204 báo cáo ADR, tăng 1,3 lần so với cùng kỳ năm 2024 (160 báo cáo).
Việc sử dụng hệ thống phóng thích Levonorgestrel trong tử cung (LNG-IUS: Levonorgestrel-releasing intrauterine system) có liên quan đến tăng nguy cơ ung thư vú. Một nghiên cứu ở Đan Mạch ghi nhận 14 trường hợp ung thư vú trên 10.000 phụ nữ tránh thai bằng LNG-IUS so với phụ nữ tránh thai không dùng nội tiết.
Theo kết quả của một nghiên cứu trên JAMA Network Open, tiêm vắc-xin cúm không liên quan đến việc tăng nguy cơ mắc các kết quả bất lợi trong thời kỳ chu sinh đối với những người mang thai liên tiếp. Các tác giả nghiên cứu cho biết những phát hiện này ủng hộ các khuyến nghị hiện tại cho những người mang thai hoặc những người có thể mang thai trong mùa cúm.
Staphylococcus aureus, một loại vi khuẩn gram dương, là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong do nhiễm trùng huyết trên toàn thế giới, với tỷ lệ tử vong từ 15% đến 30% và ước tính có 300.000 ca tử vong mỗi năm.
Các loài thuộc chi Candida là một phần của hệ vi sinh vật thường trú trong âm đạo có khoảng 25% ở phụ nữ, do vậy việc phát hiện nấm không đủ để chẩn đoán bệnh. Ước tính có 75% phụ nữ bị nhiễm nấm candida âm đạo ít nhất một lần trong đời. Nồng độ estrogen và tăng sản xuất glycogen ở âm đạo, tình trạng này xảy ra thường gặp và nghiêm trọng hơn trong thai kỳ. Trong thời kỳ mang thai, bệnh có liên quan đến những kết quả bất lợi trong sản khoa như vỡ ối sớm, chuyển dạ sớm, viêm màng ối, nhiễm nấm candida da ở trẻ sơ sinh và nhiễm trùng hậu sản 1. Bệnh viêm âm hộ-âm đạo do nấm candida là một trong những nguyên nhân phổ biến nhất có triệu chứng gây ngứa và tiết dịch âm đạo. Biểu hiện của bệnh là tình trạng viêm thường gặp ở các loài nấm Candida với các triệu chứng là ngứa và viêm đỏ.