FDA tăng cường cảnh báo trên nhãn các thuốc fluoroquinolon
Ds Thân Thị Mỹ Linh (lược dịch)
Khoa Dược
Cơ quan quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) đồng ý phê duyệt thông tin cập nhật trên nhãn của các kháng sinh fluoroquinolon về cảnh báo chống lại việc chỉ định cho những bệnh nhân viêm xoang cấp tính do vi khuẩn, đợt cấp tính của bệnh viêm phế quản mãn tính, nhiễm trùng đường tiết niệu không biến chứng, trừ khi không có lựa chọn điều trị khác.
Thông tin mới trên nhãn tăng cường cảnh báo về những rủi ro có thể xảy ra các tác dụng phụ lâu dài bao gồm viêm gân và đứt gân, ảnh hưởng đến hệ thần kinh trung ương, bệnh nhược cơ trầm trọng, bệnh lý thần kinh ngoại biên, kéo dài khoảng QT, xoắn đỉnh và nhạy cảm với ánh sáng. Các tác dụng phụ này có thể xảy ra vài giờ đến vài tuần sau khi sử dụng thuốc và có thể xuất hiện cùng nhau.
Fluoroquinolones có rủi ro và lợi ích cần được xem xét rất cẩn thận. Điều quan trọng là cả thầy thuốc và bệnh nhân đều phải nhận thức được những rủi ro và lợi ích của fluoroquinolones và đưa ra quyết định đúng đắn về việc sử dụng thuốc.
Fluoroquinolones có hiệu quả trong điều trị nhiễm khuẩn nghiêm trọng nhưng FDA khuyến cáo rủi ro sẽ lớn hơn lợi ích khi điều trị nhiễm trùng không biến chứng do vậy nên dành fluoroquinolones cho bệnh nhân bị viêm xoang, viêm phế quản, nhiễm trùng đường tiết niệu không biến chứng mà không có lựa chọn điều trị khác, vì nguy cơ gây ra các tác dụng phụ nghiêm trọng.
Lợi ích sẽ lớn hơn nguy cơ khi sử dụng thuốc kháng sinh fluoroquinolone cho những bệnh lý nhiễm khuẩn nghiêm trọng, bao gồm: bệnh than, dịch hạch và viêm phổi do vi khuẩn.
Những kháng sinh fluoroquinolon được FDA phê chuẩn bao gồm levofloxacin, ciprofloxacin, moxifloxacin, ofloxacin và gemifloxacin.
Những thay đổi thông tin trên nhãn bao gồm: cập nhật những cảnh báo trong thông tin kê toa sản phẩm về các tác dụng phụ xảy ra cùng lúc và khuyến cáo để dành fluoroquinolones cho bệnh nhân bị viêm xoang cấp tính do vi khuẩn, đợt cấp của viêm phế quản mãn tính, nhiễm trùng đường tiết niệu không biến chứng khi không còn lựa chọn điều trị khác. Đồng thời phải thông tin đầy đủ cho bệnh nhân khi kê đơn chỉ định sử dụng fluoroquinolon.
Sốt là triệu chứng phổ biến trong thực hành lâm sàng hàng ngày và một số lượng lớn người bệnh nhập viện do sốt. Nhiều người bệnh được dùng thuốc kháng sinh, thuốc kháng vi-rút, thuốc kháng nấm hoặc thuốc kháng ký sinh trùng, nếu coi nhiễm trùng là nguyên nhân chính. Tuy nhiên, thuốc được dùng để điều trị có thể là nguyên nhân tiềm ẩn gây sốt trong bối cảnh như vậy
Năm 2024, Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) đã ban hành hướng dẫn về việc sử dụng doxycyclin dự phòng sau phơi nhiễm (doxy-PEP) để phòng ngừa bệnh nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục (STI). Dự phòng sau phơi nhiễm là một chiến lược hoá trị dự phòng, trong đó thuốc được dùng sau khi có khả năng phơi nhiễm để ngăn ngừa nhiễm trùng. Đây là một chiến lược phòng ngừa phổ biến và hiệu quả đối với HIV và các bệnh nhiễm trùng khác, chẳng hạn như bệnh dại và uốn ván. Doxycyclin là một kháng sinh nhóm tetracyclin phổ rộng dung nạp tốt và được khuyến cáo điều trị bệnh chlamydia và là phương pháp thay thế trong điều trị giang mai ở những bệnh nhân không có thai.
Việc bẻ, nghiền viên nén không bao, bao phim, bao đường hoặc mở viên nang giải phóng dược chất tức thì không làm thay đổi sinh khả dụng của thuốc và giúp bệnh nhân tuân thủ điều trị tốt hơn
Trẻ em không phải người lớn thu nhỏ. Các yếu tố dược động học ở trẻ sơ sinh thay đổi liên tục do sự phát triển nhanh về sinh lý. Tiêm tĩnh mạch thường được sử dụng trong điều trị cho trẻ sơ sinh, đặc biệt khi trẻ đang điều trị tại đơn vị chăm sóc tích cực. Khi tiêm tĩnh mạch, hiệu quả gần như tức thời. Hầu hết các loại thuốc tiêm tĩnh mạch cho trẻ sơ sinh có những yêu cầu riêng về độ pha loãng và/hoặc tốc độ truyền.
Trong giai đoạn năm 2018-2021, Mạng lưới An toàn Chăm sóc Sức khỏe Quốc gia (NHSN) đã báo cáo rằng 0,4% (n = 1.951) các ca nhiễm trùng mắc phải tại bệnh viện (HAI) ở Hoa Kỳ nguyên nhân do Acinetobacter spp. gây ra. Trong số này có 28-45% không nhạy cảm với kháng sinh carbapenem (tức là trung gian hoặc đề kháng).
Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng (RCT), BLING III cung cấp bằng chứng việc sử dụng truyền liên tục (CI) so với truyền ngắt quãng piperacillin/tazobactam và meropenem trên bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Điều này được củng cố bởi một đánh giá tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp (SRMA) của 18 RCT về CI hoặc truyền kéo dài (EI) (thời gian từ 3–4 giờ) các kháng sinh beta-lactam. Thách thức hiện nay là chuyển đổi CI như một tiêu chuẩn chăm sóc cho bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Các cân nhắc chính bao gồm các vấn đề sau: