FDA tăng cường cảnh báo về bệnh lý thần kinh do các Fluoroquinolon
DS. Hoàng Thị Vinh (dịch)
Khoa Dược - BV Từ Dũ
Ngày 15 tháng 8 vừa qua, Cục quản lý dược và thực phẩm Hoa Kỳ đã thông báo rằng kháng sinh nhóm fluoroquinolon đường uống hoặc đường tiêm gây ra nguy cơ lâu dài trên thần kinh ngoại biên - một nguy cơ sẽ được cập nhật trên nhãn mới của các thuốc này.
Có 6 kháng sinh thuộc nhóm fluoroquinolon được FDA công nhận trên thị trường: ciprofloxacin, gemifloxacin, levofloxacin, moxifloxacin, norfloxacin và ofloxacin. Trong năm 2011, 23 triệu người bệnh đã nhận được đơn thuốc có fluoroquinolon đường uống từ những quầy thuốc bán lẻ cho bệnh nhân ngoại trú, khoảng 3.8 triệu bệnh nhân nhập viện được tính phí cho các thuốc này ở dạng tiêm.
Theo FDA, nguy cơ trên thần kinh ngoại biên của các fluoroquinolon dùng tại chỗ cho mắt hoặc tai chưa được biết.
FDA bổ sung thêm khả năng gây bệnh thần kinh ngoại biên trên nhãn của fluoroquinolon dạng uống và dạng tiêm vào năm 2004. Cơ quan này cho biết đã tiếp tục nhận được các báo cáo về tác dụng phụ này kể từ thời điểm đó. FDA thông báo rằng một nghiên cứu gần đây về những trường hợp khuyết tật trong hệ thống báo cáo sự cố gây hại của FDA từ ngày 01 tháng 1 năm 2003 đến ngày 01 tháng 8 năm 2012 cho thấy sự khởi phát của bệnh thần kinh ngoại biên sau khi bắt đầu điều trị fluoroquinolon xảy ra nhanh, thường trong vòng một vài ngày. Một số bệnh nhân đã ngừng dùng thuốc tiếp tục có các triệu chứng tổn thương thần kinh trong hơn một năm
Cơ quan này cũng tư vấn cho các bác sĩ lâm sàng đổi kháng sinh cho những bệnh nhân được chỉ định fluoroquinolon nếu họ có các triệu chứng về thần kinh ngoại biên, trừ khi các nhà lâm sàng tin tưởng rằng hiệu quả của fluoroquinolon cao hơn nguy cơ do chúng gây ra.
Nguồn:
FDA Strengthens Neuropathy Warning for Fluoroquinolones. Medscape. Aug 15, 2013
Probiotics được định nghĩa là “các vi sinh vật sống, khi được đưa vào cơ thể với số lượng đủ, sẽ mang lại lợi ích cho sức khỏe của vật chủ”. Các chủng vi khuẩn tạo axit lactic là quan trọng nhất trong thực phẩm và dinh dưỡng, chủng thuộc chi Lactobacillus và Bifidobacterium là những probiotic được sử dụng phổ biến nhất, ngoài ra còn kể đến các chi Bacillus, Streptococcus, Enterococcus, Saccharomyces và Escherichia coli
- Bệnh viện đã thực hiện 378 báo cáo ADR, giảm 7,9% so với năm 2023 (408 báo cáo), tăng 14,2% so với năm 2022 (331 báo cáo).
- Số lượng báo cáo ADR ngoại trú là 18 báo cáo, giảm 3,6 lần so với năm 2023 (66 báo cáo).
- Bệnh viện Từ Dũ được Trung tâm DI&ADR quốc gia xếp hạng 8/991 cơ sở khám chữa bệnh có hoạt động theo dõi ADR hiệu quả trong báo cáo tổng kết ADR quốc gia vào tháng 9/2024.
Mirvetuximab soravtansine-gynx đã được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) phê duyệt điều trị cho bệnh nhân trưởng thành mắc ung thư biểu mô buồng trứng, ống dẫn trứng, hoặc ung thư phúc mạc nguyên phát dương tính với thụ thể folat alpha (FRα), kháng hóa trị, là những bệnh nhân đã trải qua 3 liệu trình điều trị trước đó. Theo các chuyên gia, bệnh nhân mắc các loại ung thư này thường được phát hiện khi bệnh đã ở giai đoạn muộn, trải qua phẫu thuật và sau đó được điều trị bằng phác đồ hóa trị có platinum nhưng có thể trở nên kháng thuốc.
Kháng sinh (KS) phổ rộng được xem như “thần dược” để điều trị các bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng hoặc đe dọa tính mạng khi tác nhân gây bệnh chưa được xác định. Mục đích sử dụng KS phổ rộng nhằm bao phủ nhiều loại tác nhân vi khuẩn gram dương và gram âm, bao gồm cả các tác nhân kháng thuốc trong khi chờ kết quả nuôi cấy. Tuy nhiên, việc sử dụng bừa bãi các KS phổ rộng cũ và mới đã góp phần đáng kể vào sự gia tăng tình trạng kháng kháng sinh (AMR) – một vấn đề sức khỏe toàn cầu đáng lưu ý.
Những dữ kiện của một nghiên cứu tiền lâm sàng cho thấy: đái tháo đường thai kỳ (ĐTĐTK) có thể làm tăng nguy cơ nhiễm trùng và tử vong ở trẻ sơ sinh nguyên nhân do liên cầu khuẩn nhóm B (GBS). Có nhiều lý do như: thay đổi hệ vi sinh vật âm đạo, giảm đáp ứng miễn dịch và quá trình điều hoà thích nghi của vi khuẩn.
Tiền sản giật là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong mẹ. Bệnh lý tiền sản giật có liên quan đến sự xâm lấn tế bào nuôi nhau thai và sự tái cấu trúc động mạch xoắn tử cung. Với đặc tính kháng viêm, aspirin được giả thuyết rằng có thể cải thiện sự bám nhau giúp ngăn ngừa tiền sản giật. Vì vậy, spirin liều thấp được khuyến cáo sử dụng để dự phòng tiền sản giật trong thai kỳ. Mặt khác, aspirin cũng được chỉ định cho các trường hợp thai giới hạn tăng trưởng, sinh non, thai lưu.