Fenoterol tốt hơn atosiban cho chỉ định làm dụng giãn tử cung khi thực hiện ECV
Ds Thân Thị Mỹ Linh (lược dịch)
Khoa Dược
Một nghiên cứu mới cho thấy fenoterol có hiệu quả hơn so với atosiban để làm giãn cơ tử cung ở những phụ nữ có chỉ định phương pháp xoay ngôi thai ngoài (External cephalic version - ECV) cho các trường hợp ngôi mông. Việc sử dụngfenoterol có thể làm tăng tỉ lệ thành công của ECV và giảm tỷ lệ mổ lấy thai.
Các nhà nghiên cứu cho biết ở phụ nữ có chỉ định phương pháp xoay ngôi thai ngoài ECV do ngôi mông, việc làm giãn tử cung với fenoterol làm tăng tỷ lệ ngôi đầu 30 phút sau khi làm thủ thuật. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê được ghi nhận với ngôi đầu tại thời điểm chuyển dạ.
Vị trí ngôi đầu có được sau khi thực hiện phương pháp xoay ngôi thai ngoài ECV sau 30 phút ở những phụ nữ sử dụng atosiban ít hơn so với những người dùng fenoterol (34% so với 40%; RR, 0,73; 95% CI, 0.55 - 0.93).
Ngôi đầu ngay tại lúc chuyển dạ xảy ra ở 35% (n = 135) ở nhóm atosiban và 40% (n = 166) ở nhóm fenoterol (RR, 0,86; 0,72 - 1,03) và mổ lấy thai đã được thực hiện ở 60% (n = 240) phụ nữ trong nhóm atosiban và 55% (n = 218) ở nhóm fenoterol (RR, 1.09; 0.96 - 1.20).
Trong thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng ở 818 phụ nữ mang thai đơn có tuổi thai trên 34 tuần tuổi, việc làm giãn tử cung với atosiban để thực hiện phương pháp xoay ngôi thai ngoài ECV cho thấy bào thai ở vị trí ngôi đầu sau 30 phút có tỷ lệ thấp hơn của so với fenoterol. Điều này dẫn tới nguy cơ sinh mổ khi sử dụng atosiban cao hơn là sau khi điều trị bằng fenoterol. Tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê, nguy cơ gia tăng hợp lý có thể do tỷ lệ thành công của phương pháp xoay ngôi thai ngoài ECV thấp hơn khi sử dụng atosiban. Đồng thời, không có sự khác biệt đáng kể trong kết cục sơ sinh hoặc các tác dụng phụ liên quan đến thuốc giữa hai nhóm.
Trong một tổng quan của Cochran về các chất làm giãn tử cung trong phương pháp xoay ngôi thai ngoài ECV, các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng thuốc chủ vận beta là thuốc có hiệu quả nhất để làm tăng sự xuất hiện ngôi đầu trong chuyển dạ so với giả dược, do đó giảm tỉ lệ mổ lấy thai (6 nghiên cứu; n = 742; RR, 0,77 ; 0,67 - 0,88).
Các nhà nghiên cứu cho biết thêm khi chú trọng đến lợi ích và chi phí điều trị, fenoterol rẻ hơn nhiều so với atosiban (€0,90 so với €31,80 ở Hà Lan).
Các nhà nghiên cứu đã so sánh hiệu quả của thuốc ức chế thụ thể oxytocin là atosiban với thuốc chủ vận beta là fenoterol bằng cách phân ngẫu nhiên 830 phụ nữ mang đơn thai ngôi mông ở tuổi thai hơn 34 tuần với liều 6,75mg atosiban (n = 416) hoặc 40 μg fenoterol (n = 414) tiêm tĩnh mạch để làm giãn cơ tử cung trước khi thực hiện phương pháp xoay ngôi thai ngoài ECV.
Xác định một bào thai ở vị trí ngôi đầu thai sau khi làm thủ thuật 30 phút và ngôi đầu tại thời điểm chuyển dạ là mục tiêu chính của nghiên cứu. Các mục tiêu khác là phương thức sinh con, tỷ lệ biến chứng của mẹ và thai nhi, các phản ứng phụ liên quan đến thuốc.
Các nghiên cứu hiện tại bị hạn chế vì bác sĩ và thai phụ không thể bị làm mù trong quá trình điều trị do các tác dụng phụ rõ ràng và thường gặp của thuốc chủ vận beta. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu nhấn mạnh rằng các phản ứng phụ không bao giờ là lý do để chấm dứt can thiệp và sự thiên lệch do không bị làm mù hầu như không có.
Tài liệu tham khảo
- http://specialty.mims.com/topic/fenoterol-better-than-atosiban-as-uterine-relaxant-for-ecv
Probiotics được định nghĩa là “các vi sinh vật sống, khi được đưa vào cơ thể với số lượng đủ, sẽ mang lại lợi ích cho sức khỏe của vật chủ”. Các chủng vi khuẩn tạo axit lactic là quan trọng nhất trong thực phẩm và dinh dưỡng, chủng thuộc chi Lactobacillus và Bifidobacterium là những probiotic được sử dụng phổ biến nhất, ngoài ra còn kể đến các chi Bacillus, Streptococcus, Enterococcus, Saccharomyces và Escherichia coli
- Bệnh viện đã thực hiện 378 báo cáo ADR, giảm 7,9% so với năm 2023 (408 báo cáo), tăng 14,2% so với năm 2022 (331 báo cáo).
- Số lượng báo cáo ADR ngoại trú là 18 báo cáo, giảm 3,6 lần so với năm 2023 (66 báo cáo).
- Bệnh viện Từ Dũ được Trung tâm DI&ADR quốc gia xếp hạng 8/991 cơ sở khám chữa bệnh có hoạt động theo dõi ADR hiệu quả trong báo cáo tổng kết ADR quốc gia vào tháng 9/2024.
Mirvetuximab soravtansine-gynx đã được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) phê duyệt điều trị cho bệnh nhân trưởng thành mắc ung thư biểu mô buồng trứng, ống dẫn trứng, hoặc ung thư phúc mạc nguyên phát dương tính với thụ thể folat alpha (FRα), kháng hóa trị, là những bệnh nhân đã trải qua 3 liệu trình điều trị trước đó. Theo các chuyên gia, bệnh nhân mắc các loại ung thư này thường được phát hiện khi bệnh đã ở giai đoạn muộn, trải qua phẫu thuật và sau đó được điều trị bằng phác đồ hóa trị có platinum nhưng có thể trở nên kháng thuốc.
Kháng sinh (KS) phổ rộng được xem như “thần dược” để điều trị các bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng hoặc đe dọa tính mạng khi tác nhân gây bệnh chưa được xác định. Mục đích sử dụng KS phổ rộng nhằm bao phủ nhiều loại tác nhân vi khuẩn gram dương và gram âm, bao gồm cả các tác nhân kháng thuốc trong khi chờ kết quả nuôi cấy. Tuy nhiên, việc sử dụng bừa bãi các KS phổ rộng cũ và mới đã góp phần đáng kể vào sự gia tăng tình trạng kháng kháng sinh (AMR) – một vấn đề sức khỏe toàn cầu đáng lưu ý.
Những dữ kiện của một nghiên cứu tiền lâm sàng cho thấy: đái tháo đường thai kỳ (ĐTĐTK) có thể làm tăng nguy cơ nhiễm trùng và tử vong ở trẻ sơ sinh nguyên nhân do liên cầu khuẩn nhóm B (GBS). Có nhiều lý do như: thay đổi hệ vi sinh vật âm đạo, giảm đáp ứng miễn dịch và quá trình điều hoà thích nghi của vi khuẩn.
Tiền sản giật là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong mẹ. Bệnh lý tiền sản giật có liên quan đến sự xâm lấn tế bào nuôi nhau thai và sự tái cấu trúc động mạch xoắn tử cung. Với đặc tính kháng viêm, aspirin được giả thuyết rằng có thể cải thiện sự bám nhau giúp ngăn ngừa tiền sản giật. Vì vậy, spirin liều thấp được khuyến cáo sử dụng để dự phòng tiền sản giật trong thai kỳ. Mặt khác, aspirin cũng được chỉ định cho các trường hợp thai giới hạn tăng trưởng, sinh non, thai lưu.