FIGO (2012) Khuyến cáo phác đồ thuốc dự phòng và điều trị băng huyết sau sinh
Khoa Dược - BV Từ Dũ
FIGO (2012) khuyến cáo phác đồ thuốc dự phòng và điều trị BHSS dưới đây:

Nếu dự phòng bằng Oxytocin hoặc Ergometrin thất bại, có thể lựa chọn tất cả các biện pháp điều trị.
Nếu dự phòng bằng Misoprostol thất bại, có thể lựa chọn tất cả các biện pháp điều trị, trừ Misoprostol.
* Thận trọng: Ergot alkaloids (Ergometrin hoặc Methylergometrin) chống chỉ định
ở thai phụ cao huyết áp, bệnh tim, tiền sản giật hoặc sản giật do làm tăng huyết áp.
* Chú ý: nếu một trong các biện pháp điều trị bằng thuốc thất bại, có thể dùng thuốc khác tùy thuộc vào độ nghiêm trọng của xuất huyết và cần xem xét đến các can thiệp khác.
Oxytocin
Ergot alkaloids
Ergot alkaloids như Ergometrin, Methylergometrin và Sytometrin gây co mạnh cho cả cơ trơn của phân đoạn trên và dưới của tử cung. Mặc dù ống thuốc có nồng độ khác nhau (0,2 mg/ml hoặc 0,5 mg/ml), liều khuyến cáo của Ergometrin hoặc Methylergometrin là 0,2 mg tiêm bắp, có thể lặp lại mỗi 2-3 giờ cho đến liều tối đa là 5 liều (1mg) trong vòng 24 giờ. Ergot alkaloids chống chỉ định trên phụ nữ cao huyết áp, bệnh tim hoặc tiền sản giật vì chúng có thể gây tăng huyết áp.
Misoprostol
Nghiên cứu đã chứng minh rằng, liều đơn Misoprostol 800 μg (4 viên 200μg) ngậm dưới lưỡi an toàn và hiệu quả trong điều trị BHSS do đờ tử cung trên những sản phụ đã được nhận Oxytocin dự phòng, cũng như trên sản phụ không được dự phòng Oxytocin trong suốt giai đoạn 3 chuyển dạ.
Tại các nhà bảo sanh thiếu chuyên viên tay nghề cao, Misoprostol có thể coi là kỹ thuật sẵn có duy nhất để kiểm soát BHSS. Các nghiên cứu về điều trị bằng Misoprostol đã tìm thấy rằng, Misoprostol làm giảm đáng kể việc cần thiết can thiệp thêm. Hiếm khi, sốt cao, không gây tử vong được báo cáo sau khi uống 800μg. Không có bằng chứng về an toàn và hiệu quả của liều 800μg trong điều trị BHSS trên những sản phụ đã được dự phòng sẵn bằng Misoprostol 600 μg uống. Có bằng chứng về Misoprostol không mang lại thêm hiệu quả khi dùng Misoprostol đồng thời với truyền các thuốc co hồi tử cung khác. Do đó, Misoprostol không được khuyến cáo như một điều trị phụ trợ cùng Oxytocin trong băng huyết sau sinh.
Chỉ định thuốc co hồi tử cung ngay lập tức:
● Oxytocin.
▪ 10 IU tiêm bắp hoặc
▪ 20-40 IU trong 1 lít NaCl 0,9%: truyền tĩnh mạch 60 giọt/ phút
▪ Tiếp tục truyền Oxytocin (20 IU trong 1 lít dung môi truyền: 40 giọt/ phút) cho đến khi ngừng băng huyết.
Hoặc
● Ergometrin hoặc Methylergometrin (sử dụng nếu Oxytocin không đáp ứng hoặc nếu vẫn tiếp tục chảy máu dù đã sử dụng Oxytocin)
▪ 0,2 mg; hàm lượng có thể khác nhau giữa các nước (Ergometrin 0,2 mg hoặc 0,5 mg) tiêm bắp hoặc có thể tiêm tĩnh mạch chậm.
▪ Nếu vẫn còn chảy máu, có thể lặp lại 0,2mg tiêm bắp mỗi 2-4 giờ cho đến tối đa 5 liều (1mg) trong vòng 24 giờ.
▪ Không được vượt quá 1 mg (5 liều 0,2mg) trong vòng 24 giờ.
▪ Cao huyết áp: chống chỉ định tương đối do nguy cơ đột quỵ và /hoặc cơn cao huyết áp.
▪ Chống chỉ định dùng đồng thời với thuốc điều trị HIV (ức chế HIV protease, Efavirenz hoặc Delavirdin). Nếu không có điều trị thay thế nào sẵn có để kiểm soát xuất huyết, dùng liều thấp nhất/ khoảng thời gian dùng ngắn nhất. Chỉ dùng khi lợi ích nhiều hơn nguy cơ.
Hoặc
● Syntometrin (kết hợp Oxytocin 5 IU với Ergometrin 0,5 mg).
▪ 1 ống tiêm bắp (cảnh báo, tiêm tĩnh mạch có thể gây hạ áp).
Hoặc
● Misoprostol (nếu Oxytocin không đáp ứng hoặc tác dụng không khả thi).
▪ Đơn liều 800 μg ngậm dưới lưỡi (4 viên 200μg)
Trong BHSS, Oxytocin nên được ưu tiên hơn Ergometrin hoặc Methylergometrin đơn liệu, kết hợp liều cố định Ergometrin và Oxytocin, Carbetocin và / hoặc Prostagladin như Misoprostol. Nếu Oxytocin không sẵn có, hoặc nếu sự chảy máu không đáp ứng với Oxytocin hoặc Ergometrin, kết hợp liều cố định Oxytocin-Ergometrin, Carbetocin hoặc Misoprostol nên được xem xét là lựa chọn thứ 2. Nếu điều trị thứ 2 không sẵn có hoặc sự chảy máu vẫn không đáp ứng với điều trị thứ 2, một Prostagladin như Carboprost tromethamin (Hemabate) nên được xem xét như là lựa chọn thứ 3, nếu sẵn có.
Nếu vẫn còn chảy máu dai dẳng sau khi can thiệp thuốc co hồi tử cung, phải xem xét đến các biện pháp can thiệp khác nhằm cứu mạng sống sản phụ.
Trích nguồn:
Prevention and treatment of postpartum hemorrhage in low-resource setting. International Journal of Gynecology and Obstetrics 117 (2012) 108-118.
Các loài thuộc chi Candida là một phần của hệ vi sinh vật thường trú trong âm đạo có khoảng 25% ở phụ nữ, do vậy việc phát hiện nấm không đủ để chẩn đoán bệnh. Ước tính có 75% phụ nữ bị nhiễm nấm candida âm đạo ít nhất một lần trong đời. Nồng độ estrogen và tăng sản xuất glycogen ở âm đạo, tình trạng này xảy ra thường gặp và nghiêm trọng hơn trong thai kỳ. Trong thời kỳ mang thai, bệnh có liên quan đến những kết quả bất lợi trong sản khoa như vỡ ối sớm, chuyển dạ sớm, viêm màng ối, nhiễm nấm candida da ở trẻ sơ sinh và nhiễm trùng hậu sản 1. Bệnh viêm âm hộ-âm đạo do nấm candida là một trong những nguyên nhân phổ biến nhất có triệu chứng gây ngứa và tiết dịch âm đạo. Biểu hiện của bệnh là tình trạng viêm thường gặp ở các loài nấm Candida với các triệu chứng là ngứa và viêm đỏ.
Cách tốt nhất để bảo vệ chống lại bệnh sởi là tiêm vắc xin phòng ngừa sởi, quai bị và rubella (MMR). Trẻ em có thể tiêm vắc xin phòng ngừa sởi, quai bị, rubella và thủy đậu (MMRV) để thay thế. Hầu hết những người được tiêm vắc-xin MMR và MMRV sẽ được bảo vệ suốt đời.
Việc nhai, bẻ, nghiền các loại thuốc viên đôi khi cần thiết trong một số trường hợp. Tuy nhiên, các thuốc có dạng bào chế đặc biệt nếu bị nhai, bẻ, nghiền có thể ảnh hưởng đến tác dụng điều trị và tính an toàn của thuốc. Chẳng hạn như nếu nghiền viên phóng thích chậm hoặc phóng thích kéo dài sẽ gây phóng thích một lượng lớn hoạt chất tại một thời điểm nhất định, gây quá liều thuốc và gây nguy hiểm cho người bệnh. Nghiền viên bao tan trong ruột có thể làm cho thuốc bị bất hoạt ở dạ dày hoặc gây kích ứng cho đường tiêu hóa.
Cúm là một bệnh đường hô hấp cấp tính do vi-rút cúm A hoặc B gây ra, xảy ra thành các đợt bùng phát và dịch bệnh trên toàn thế giới, chủ yếu vào mùa đông. Tỷ lệ mắc bệnh và tử vong liên quan đến cúm cao hơn ở những phụ nữ mang thai và mới sinh (trong vòng hai tuần sau khi sinh hoặc sảy thai) so với dân số nói chung.
Probiotics được định nghĩa là “các vi sinh vật sống, khi được đưa vào cơ thể với số lượng đủ, sẽ mang lại lợi ích cho sức khỏe của vật chủ”. Các chủng vi khuẩn tạo axit lactic là quan trọng nhất trong thực phẩm và dinh dưỡng, chủng thuộc chi Lactobacillus và Bifidobacterium là những probiotic được sử dụng phổ biến nhất, ngoài ra còn kể đến các chi Bacillus, Streptococcus, Enterococcus, Saccharomyces và Escherichia coli
- Bệnh viện đã thực hiện 378 báo cáo ADR, giảm 7,9% so với năm 2023 (408 báo cáo), tăng 14,2% so với năm 2022 (331 báo cáo).
- Số lượng báo cáo ADR ngoại trú là 18 báo cáo, giảm 3,6 lần so với năm 2023 (66 báo cáo).
- Bệnh viện Từ Dũ được Trung tâm DI&ADR quốc gia xếp hạng 8/991 cơ sở khám chữa bệnh có hoạt động theo dõi ADR hiệu quả trong báo cáo tổng kết ADR quốc gia vào tháng 9/2024.