Giảm sử dụng fluoroquinolone có thể là chìa khóa để ngăn chặn sự bùng phát Clostridium difficile
Ds Thân Thị Mỹ Linh (lược dịch)
Khoa Dược
Theo một nghiên cứu mới được đăng trên tạp chí Reuters Health ngày 03 tháng 02 năm 2017, chính sách quản lý sử dụng kháng sinh giúp giảm một cách nhanh chóng tình trạng nhiễm trùng do Clostridium difficile trên khắp vương quốc Anh (U.K) trong thập niên vừa qua.
Tiến sĩ Derrick Crook, đại học Oxford, một trong những tác giả của nghiên cứu cho rằng dịch bệnh do C. difficile gây ra tràn lan ở U.K. và điều nay được giải thích rõ ràng nhất đó là kết quả tình trạng đề kháng thuốc với quinolone. Chính vì vậy họ có thể kiểm soát dịch bệnh bằng cách giảm sử dụng lượng thuốc đó xuống 50%.
Năm 2007, U.K. ban hành các chính sách quốc gia về kiểm soát nhiễm C. difficile, bao gồm các khuyến cáo tránh sử dụng clindamycin, cephalosporin và giảm thiểu sử dụng fluoroquinolon, carbapenem, aminopenicillin cùng với việc tăng cường các biện pháp phòng chống và kiểm soát nhiễm trùng.
Sử dụng fluoroquinolone giảm 50% trong khi nhiễm C. difficile giảm 80%, thông tin này được Dr. Crook và các cộng sự đăng tải online trên tạo chí The Lancet Infectious Diseases ngày 25 tháng 1 năm 2017.
Để khảo sát biện pháp nào đã làm giảm nhiễm C. difficile, các nhà nghiên cứu đã xem xét dữ liệu trong các năm 1998-2014 về việc kê toa kháng sinh và tỷ lệ nhiễm C. difficile, cũng như phân tích việc phát sinh loài của hơn 4.000 chủng C. difficile trong nước và quốc tế. Việc kê toa fluoroquinolon và cephalosporin có tương quan mạnh với tỉ lệ nhiễm C. difficile (tương quan chéo > 0.88) so với kê toa kháng sinh chung (tương quan chéo < 0.59). Cũng có sự liên quan giữa việc hạn chế kê toa fluoroquinolon và sự suy giảm của các chủng kháng fluoroquinolon trong khu vực. Tại Oxfordshire, 67% số trường hợp bị nhiễm fluoroquinolone vào tháng 9 năm 2006, so với 3% vào tháng 2 năm 2013. Số trường hợp nhiễm trùng do các nguyên nhân thứ phát gây ra bởi chủng kháng fluoroquinolone giảm đáng kể, mặc dù không có sự thay đổi trong các trường hợp gây ra bởi các chủng nhạy cảm với fluoroquinolon. Phân lập các chủng C. difficile cho thấy các chủng kháng quinolone rất phong phú trong bốn dòng khác biệt và đã giảm trên tất cả các dòng trong quá trình nghiên cứu.
Tiến sĩ Crook kêu gọi các đồng nghiệp ở Bắc Mỹ tiếp tục theo dõi những ghi nhận này. Ông lưu ý rằng ở Ireland đã có sự suy giảm tỷ lệ nhiễm C. difficile sau khi giảm sử dụng quinolon.
Một trong những thế mạnh chính của nghiên cứu này là thang đo hẹp hơn các nghiên cứu khác mà đã cho thấy những phát hiện tương tự, rằng việc hạn chế các fluoroquinolon không chỉ có thể làm giảm tỉ lệ C. diff mà còn cung cấp dữ liệu về sự thay đổi các chủng C. diff gây bệnh. Việc hạn chế sử dụng fluoroquinolon cũng có những lợi ích khác, bao gồm việc giảm sự phát triển của các mầm bệnh đề kháng khác.
Nguồn
- Lancet Infect Dis 2017.
- http://www.medscape.com/viewarticle/875333
Độc tính trên thận do thuốc là nguyên nhân phổ biến gây ra tổn thương thận cấp tính (AKI) và kháng sinh (KS) là một trong những nhóm thuốc lớn nhất liên quan đến AKI. Cơ chế gây độc tính trên thận do KS bao gồm tổn thương cầu thận, tổn thương hoặc rối loạn chức năng ống thận, tắc nghẽn ống lượn xa do trụ niệu và viêm thận kẽ cấp tính (AIN) do phản ứng quá mẫn loại IV (loại chậm). Các biểu hiện lâm sàng của độc tính trên thận do KS bao gồm hoại tử ống thận cấp (ATN), AIN và hội chứng Fanconi.
Trong 6 tháng đầu năm 2025, Bệnh viện Từ Dũ ghi nhận 204 báo cáo ADR, tăng 1,3 lần so với cùng kỳ năm 2024 (160 báo cáo).
Việc sử dụng hệ thống phóng thích Levonorgestrel trong tử cung (LNG-IUS: Levonorgestrel-releasing intrauterine system) có liên quan đến tăng nguy cơ ung thư vú. Một nghiên cứu ở Đan Mạch ghi nhận 14 trường hợp ung thư vú trên 10.000 phụ nữ tránh thai bằng LNG-IUS so với phụ nữ tránh thai không dùng nội tiết.
Theo kết quả của một nghiên cứu trên JAMA Network Open, tiêm vắc-xin cúm không liên quan đến việc tăng nguy cơ mắc các kết quả bất lợi trong thời kỳ chu sinh đối với những người mang thai liên tiếp. Các tác giả nghiên cứu cho biết những phát hiện này ủng hộ các khuyến nghị hiện tại cho những người mang thai hoặc những người có thể mang thai trong mùa cúm.
Staphylococcus aureus, một loại vi khuẩn gram dương, là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong do nhiễm trùng huyết trên toàn thế giới, với tỷ lệ tử vong từ 15% đến 30% và ước tính có 300.000 ca tử vong mỗi năm.
Các loài thuộc chi Candida là một phần của hệ vi sinh vật thường trú trong âm đạo có khoảng 25% ở phụ nữ, do vậy việc phát hiện nấm không đủ để chẩn đoán bệnh. Ước tính có 75% phụ nữ bị nhiễm nấm candida âm đạo ít nhất một lần trong đời. Nồng độ estrogen và tăng sản xuất glycogen ở âm đạo, tình trạng này xảy ra thường gặp và nghiêm trọng hơn trong thai kỳ. Trong thời kỳ mang thai, bệnh có liên quan đến những kết quả bất lợi trong sản khoa như vỡ ối sớm, chuyển dạ sớm, viêm màng ối, nhiễm nấm candida da ở trẻ sơ sinh và nhiễm trùng hậu sản 1. Bệnh viêm âm hộ-âm đạo do nấm candida là một trong những nguyên nhân phổ biến nhất có triệu chứng gây ngứa và tiết dịch âm đạo. Biểu hiện của bệnh là tình trạng viêm thường gặp ở các loài nấm Candida với các triệu chứng là ngứa và viêm đỏ.