Giảm tiểu cầu miễn dịch do thuốc
DS. Dương Thị Thanh Sương (Lược dịch)
Khoa Dược
Giảm tiểu cầu không rõ nguyên nhân là một vấn đề cần được quan tâm và lưu ý, nhất là ở những bệnh nhân đang nhập viện hoặc đang sử dụng các loại thuốc mới. Bài viết này nhằm thảo luận về việc giảm tiểu cầu miễn dịch do sự phá hủy tiểu cầu thông qua trung gian kháng thể do tiếp xúc với một loại thuốc dẫn đến giảm tiểu cầu đơn độc (những dòng tế bào khác bình thường).
Giảm tiểu cầu được định nghĩa là số lượng tiểu cầu giảm dưới 150.000/μL. Một vài trường hợp có số lượng tiểu cầu bình thường đã thấp hơn mức này, do đó không cần xét nghiệm hay can thiệp thêm.
Những nguyên nhân gây giảm tiểu cầu:
- Giảm tiểu cầu giả: vón cục tiểu cầu trong ống nghiệm,…
- Giảm tiểu cầu nguyên phát
- Giảm tiểu cầu miễn dịch do thuốc
- Sử dụng đồ uống có chứa quinine (nước tăng lực, chanh đắng), quả óc chó, một số trà thảo mộc.
- Nhiễm trùng
- Cường lách do bệnh gan mạn tính
- Uống rượu bia
- Thiếu hụt chất dinh dưỡng (vitamin B12, folate, đồng)
- Bệnh toàn thân, ban đỏ tự miễn, viêm khớp dạng thấp
- Đang mang thai
- Các bệnh về máu (thiếu máu không tái tạo, giảm tiểu cầu di truyền, ung thư, loạn sản tủy,…)
Cơ chế giảm tiểu cầu miễn dịch do thuốc
- Kháng thể xuất hiện tự nhiên: liên kết yếu với các tế bào tự thân. Trong trường hợp này có thể quan sát thấy tiểu cầu giảm rất nhanh.
- Gắn kết thuốc với bề mặt tiểu cầu gây ra sự biến đổi về hình dạng của protein bề mặt, dẫn đến kích thích hình thành kháng thể kháng tiểu cầu.
- Kháng thể kháng tiểu cầu phụ thuộc vào thuốc có thể có tính đặc hiệu với các chất chuyển hóa của thuốc.
- Các kháng thể phụ thuộc vào thuốc thường không phản ứng chéo với các loại thuốc khác nhau, nhưng có cấu trúc phân tử tương tự. Do đó, có thể hỗ trợ việc sử dụng các thuốc khác cùng nhóm ở bệnh nhân có tiền sử giảm tiểu cầu miễn dịch do thuốc trong trường hợp biết được độ đặc hiệu của các kháng thể.
- Một số loại thuốc gây giảm tiểu cầu miễn dịch cùng với việc ức chế tủy xương.
- Một số loại thuốc có thể thúc đẩy tình trạng giảm tiểu cầu qua trung gian miễn dịch, do đó tình trạng giảm tiểu cầu có thể bắt đầu hoặc tiếp tục ngay cả khi ngừng thuốc.
Một số thuốc có liên quan đến giảm tiểu cầu miễn dịch
- Quinine, quinidine
- Ibuprofen
- Heparin
- Kháng sinh: nhóm beta-lactam (penicillin, cephalosporin, flucloxacillin), linezolid, trimethoprim-sulfamethoxazole, vancomycin, rifampịn,…
Thời điểm khởi phát: với trường hợp điển hình của giảm tiểu cầu miễn dịch do thuốc, số lượng tiểu cầu giảm xảy ra trong vòng 2 tuần sau khi tiếp xúc với thuốc. Tuy nhiên, nếu bệnh nhân đã mẫn cảm với thuốc do tiếp xúc trước đó, tình trạng giảm tiểu cầu có thể khởi phát nhanh hơn (vài giờ sau khi sử dụng thuốc).
Mức độ nghiêm trọng: Giảm tiểu cầu miễn dịch do thuốc thường nghiêm trọng, số lượng tiểu cầu có thể giảm dưới 20.000/μL.
Đánh giá và xử trí trường hợp nghi ngờ giảm tiểu cầu miễn dịch do thuốc
Chẩn đoán phân biệt:
- Giảm tiểu cầu nguyên phát: là một tình trạng tự miễn, biểu hiện giảm tiểu cầu khởi phát mà không rõ nguyên nhân, tiểu cầu vẫn tiếp tục giảm khi ngưng thuốc.
- Nhiễm trùng huyết, đông máu nội mạch lan tỏa: tình trạng giảm tiểu cầu kèm theo sốt, tăng/giảm bạch cầu trung tính, xét nghiệm đông máu bất thường.
- Ban xuất huyết sau truyền máu: một biến chứng hiếm gặp sau khi truyền bất kỳ sản phẩm máu nào có chứa tiểu cầu. Trong trường hợp này, bệnh nhân thường có tiền sử truyền máu trong 7 – 10 ngày trước đó và có đáp ứng với liệu pháp ức chế miễn dịch.
Tài liệu tham khảo: Drug-induced immune thrombocytopenia – Uptodate truy cập ngày 07/5/2024.
Probiotics được định nghĩa là “các vi sinh vật sống, khi được đưa vào cơ thể với số lượng đủ, sẽ mang lại lợi ích cho sức khỏe của vật chủ”. Các chủng vi khuẩn tạo axit lactic là quan trọng nhất trong thực phẩm và dinh dưỡng, chủng thuộc chi Lactobacillus và Bifidobacterium là những probiotic được sử dụng phổ biến nhất, ngoài ra còn kể đến các chi Bacillus, Streptococcus, Enterococcus, Saccharomyces và Escherichia coli
- Bệnh viện đã thực hiện 378 báo cáo ADR, giảm 7,9% so với năm 2023 (408 báo cáo), tăng 14,2% so với năm 2022 (331 báo cáo).
- Số lượng báo cáo ADR ngoại trú là 18 báo cáo, giảm 3,6 lần so với năm 2023 (66 báo cáo).
- Bệnh viện Từ Dũ được Trung tâm DI&ADR quốc gia xếp hạng 8/991 cơ sở khám chữa bệnh có hoạt động theo dõi ADR hiệu quả trong báo cáo tổng kết ADR quốc gia vào tháng 9/2024.
Mirvetuximab soravtansine-gynx đã được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) phê duyệt điều trị cho bệnh nhân trưởng thành mắc ung thư biểu mô buồng trứng, ống dẫn trứng, hoặc ung thư phúc mạc nguyên phát dương tính với thụ thể folat alpha (FRα), kháng hóa trị, là những bệnh nhân đã trải qua 3 liệu trình điều trị trước đó. Theo các chuyên gia, bệnh nhân mắc các loại ung thư này thường được phát hiện khi bệnh đã ở giai đoạn muộn, trải qua phẫu thuật và sau đó được điều trị bằng phác đồ hóa trị có platinum nhưng có thể trở nên kháng thuốc.
Kháng sinh (KS) phổ rộng được xem như “thần dược” để điều trị các bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng hoặc đe dọa tính mạng khi tác nhân gây bệnh chưa được xác định. Mục đích sử dụng KS phổ rộng nhằm bao phủ nhiều loại tác nhân vi khuẩn gram dương và gram âm, bao gồm cả các tác nhân kháng thuốc trong khi chờ kết quả nuôi cấy. Tuy nhiên, việc sử dụng bừa bãi các KS phổ rộng cũ và mới đã góp phần đáng kể vào sự gia tăng tình trạng kháng kháng sinh (AMR) – một vấn đề sức khỏe toàn cầu đáng lưu ý.
Những dữ kiện của một nghiên cứu tiền lâm sàng cho thấy: đái tháo đường thai kỳ (ĐTĐTK) có thể làm tăng nguy cơ nhiễm trùng và tử vong ở trẻ sơ sinh nguyên nhân do liên cầu khuẩn nhóm B (GBS). Có nhiều lý do như: thay đổi hệ vi sinh vật âm đạo, giảm đáp ứng miễn dịch và quá trình điều hoà thích nghi của vi khuẩn.
Tiền sản giật là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong mẹ. Bệnh lý tiền sản giật có liên quan đến sự xâm lấn tế bào nuôi nhau thai và sự tái cấu trúc động mạch xoắn tử cung. Với đặc tính kháng viêm, aspirin được giả thuyết rằng có thể cải thiện sự bám nhau giúp ngăn ngừa tiền sản giật. Vì vậy, spirin liều thấp được khuyến cáo sử dụng để dự phòng tiền sản giật trong thai kỳ. Mặt khác, aspirin cũng được chỉ định cho các trường hợp thai giới hạn tăng trưởng, sinh non, thai lưu.