Hai yếu tố nguy cơ liên kết làm tăng tiền sản giật trong thai kỳ
DS. Đặng Thị Thuận Thảo
Khoa Dược - BV Từ Dũ
Tiền sản giật là một tình trạng phổ biến có thể xảy ra trong thai kỳ.
Triệu chứng bao gồm: tăng huyết áp cao đột ngột, sưng ở mặt, bàn tay và bàn chân, xuất hiện albumin niệu.
Nếu tiền sản giật không được điều trị, có thể phát triển thành sản giật - một tình trạng đe dọa tính mạng có thể gây co giật, hôn mê và thậm chí tử vong.
Tiền sản giật được ước tính chiếm khoảng 76.000 ca tử vong mẹ và trẻ sơ sinh trên tổng số 500.000 người chết trên toàn thế giới mỗi năm.
Một nghiên cứu mới được công bố trên Tạp chí Miễn dịch học sinh sản, cho thấy khả năng của một thai phụ phát triển tiền sản giật trong thai kỳ cao hơn đáng kể khi có hai yếu tố nguy cơ liên quan đến hệ thống miễn dịch là yếu tố di truyền và quan hệ tình dục.
Elizabeth Triche và các đồng nghiệp tại Đại học Brown cho rằng phát hiện này sẽ giúp ích cho những cặp vợ chồng đang có kế hoạch mang thai nâng cao nhận thức về tiền sản giật, cũng như cách kiểm soát để cải thiện nguy cơ.
Theo các nhà nghiên cứu tại Đại học Brown, những phụ nữ có gen HLA (kháng nguyên bạch cầu người) có nguy cơ tiền sản giật cao hơn trong thai kỳ. Hơn nữa, nguy cơ càng trầm trọng hơn trong trường hợp âm đạo của người phụ nữ được tiếp xúc với một số lượng nhỏ tinh dịch của người cha trước khi mang thai, làm ảnh hưởng đến sự đáp ứng miễn dịch của người phụ nữ.
Nghiên cứu có cỡ mẫu là 224 phụ nữ, trong đó có 118 người đã từng bị tiền sản giật trong thai kỳ và 106 người không.
Kết quả phân tích cho thấy rằng những phụ nữ hạn chế tiếp xúc với tinh dịch của người chồng trước khi mang thai, và có gen HLA loại 1 tương đồng với thai nhi có khả năng phát triển tiền sản giật trong thai kỳ cao hơn gấp 4 lần so với những phụ nữ tiếp xúc cao hơn với tinh dịch của người chồng nhưng không có gen HLA thuộc nhóm 1
Nghiên cứu này cũng đưa ra một phát hiện khác cho thấy rằng những phụ nữ tiếp xúc cao với tinh dịch của người chồng trước khi mang thai và có gen HLA loại 2 tương đồng với thai nhi (HLA-DQB1), có khả năng phát triển tiền sản giật trong thai kỳ đáng kể.
Giáo sư Triche nói rằng nếu kết quả nghiên cứu này được xác nhận, thì thử nghiệm HLA sẽ giúp ích trong việc tư vấn cho các cặp vợ chồng dự dịnh có thai về những phương pháp tốt nhất để giảm nguy cơ tiền sản giật:
- Trong trường hợp người phụ nữ có gen HLA loại 1 thì nên tăng quan hệ tình dục đường âm đạo trước khi thụ thai để giảm nguy cơ.
- Trong trường hợp người phụ nữ có gen HLA loại 2, thì giảm tần số quan hệ tình dục trước khi mang thai.
Và các yếu tố lối sống khác có thể ảnh hưởng đến nguy cơ tiền sản giật, trong đó có việc duy trì chỉ số BMI, và hoạt động thể chất.
Tài liệu tham khảo
- Honor Whiteman (15 Sep 2013), Researchers discover two linked risk factors of preeclampsia
- TS. BS. Trần Đình Bình (2009), Mối liên quan giữa hệ thống kháng nguyên bạch cầu người
- Bệnh viện đã thực hiện 378 báo cáo ADR, giảm 7,9% so với năm 2023 (408 báo cáo), tăng 14,2% so với năm 2022 (331 báo cáo).
- Số lượng báo cáo ADR ngoại trú là 18 báo cáo, giảm 3,6 lần so với năm 2023 (66 báo cáo).
- Bệnh viện Từ Dũ được Trung tâm DI&ADR quốc gia xếp hạng 8/991 cơ sở khám chữa bệnh có hoạt động theo dõi ADR hiệu quả trong báo cáo tổng kết ADR quốc gia vào tháng 9/2024.
Mirvetuximab soravtansine-gynx đã được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) phê duyệt điều trị cho bệnh nhân trưởng thành mắc ung thư biểu mô buồng trứng, ống dẫn trứng, hoặc ung thư phúc mạc nguyên phát dương tính với thụ thể folat alpha (FRα), kháng hóa trị, là những bệnh nhân đã trải qua 3 liệu trình điều trị trước đó. Theo các chuyên gia, bệnh nhân mắc các loại ung thư này thường được phát hiện khi bệnh đã ở giai đoạn muộn, trải qua phẫu thuật và sau đó được điều trị bằng phác đồ hóa trị có platinum nhưng có thể trở nên kháng thuốc.
Kháng sinh (KS) phổ rộng được xem như “thần dược” để điều trị các bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng hoặc đe dọa tính mạng khi tác nhân gây bệnh chưa được xác định. Mục đích sử dụng KS phổ rộng nhằm bao phủ nhiều loại tác nhân vi khuẩn gram dương và gram âm, bao gồm cả các tác nhân kháng thuốc trong khi chờ kết quả nuôi cấy. Tuy nhiên, việc sử dụng bừa bãi các KS phổ rộng cũ và mới đã góp phần đáng kể vào sự gia tăng tình trạng kháng kháng sinh (AMR) – một vấn đề sức khỏe toàn cầu đáng lưu ý.
Những dữ kiện của một nghiên cứu tiền lâm sàng cho thấy: đái tháo đường thai kỳ (ĐTĐTK) có thể làm tăng nguy cơ nhiễm trùng và tử vong ở trẻ sơ sinh nguyên nhân do liên cầu khuẩn nhóm B (GBS). Có nhiều lý do như: thay đổi hệ vi sinh vật âm đạo, giảm đáp ứng miễn dịch và quá trình điều hoà thích nghi của vi khuẩn.
Tiền sản giật là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong mẹ. Bệnh lý tiền sản giật có liên quan đến sự xâm lấn tế bào nuôi nhau thai và sự tái cấu trúc động mạch xoắn tử cung. Với đặc tính kháng viêm, aspirin được giả thuyết rằng có thể cải thiện sự bám nhau giúp ngăn ngừa tiền sản giật. Vì vậy, spirin liều thấp được khuyến cáo sử dụng để dự phòng tiền sản giật trong thai kỳ. Mặt khác, aspirin cũng được chỉ định cho các trường hợp thai giới hạn tăng trưởng, sinh non, thai lưu.
Sốt là triệu chứng phổ biến trong thực hành lâm sàng hàng ngày và một số lượng lớn người bệnh nhập viện do sốt. Nhiều người bệnh được dùng thuốc kháng sinh, thuốc kháng vi-rút, thuốc kháng nấm hoặc thuốc kháng ký sinh trùng, nếu coi nhiễm trùng là nguyên nhân chính. Tuy nhiên, thuốc được dùng để điều trị có thể là nguyên nhân tiềm ẩn gây sốt trong bối cảnh như vậy