Hãy là người thông thái khi sử dụng kháng sinh!
Kháng kháng sinh – Vấn nạn của thế kỷ 21!
Thuốc kháng sinh có thể xem là một trong những phát minh vĩ đại của nhân loại.Tuy nhiên, việc sử dụng kháng sinh thường xuyên, không đúng chỉ định và kéo dài sẽ tạo ra một thế hệ vi khuẩn kháng thuốc khiến quá trình khám chữa bệnh về sau khó khăn hơn. Khi các bệnh nhiễm trùng trở nên khó điều trị, đồng nghĩa bệnh tật kéo dài hơn. Một số bệnh nhiễm trùng kháng thuốc có thể dẫn đến tử vong. Mỗi đợt điều trị kháng sinh thất bại cũng là một đợt tạo thêm những vi khuẩn kháng thuốc mạnh hơn, đồng thời nguy cơ biến chứng hoặc tử vong cũng tăng lên.
Hầu hết các loại kháng sinh đều có tác dụng phụ, tùy vào cơ địa và phản ứng mỗi người. Những tác dụng phụ thường thấy ở trẻ em khi dùng kháng sinh là loạn khuẩn ruột dẫn đến tiêu chảy, buồn nôn, nôn hoặc phát ban. Bên cạnh đó còn có thể gặp các tác dụng không mong muốn khác như ngứa, ban đỏ, nổi mề đay, thậm chí là sốc phản vệ gây tử vong. Cũng cần chú ý, một số kháng sinh khi dùng kéo dài còn có thể gây ra tình trạng nhiễm độc các cơ quan như gây độc đối với gan, thận (tetracyclin, sulfamid), các tế bào máu (cloramphenicol), thần kinh thính giác (streptomycin, gentamycin), xương răng (tetracyclin làm hại răng trẻ em)...
Khuyến cáo
Đối với bệnh nhân:
- Không nên tự ý sử dụng kháng sinh: Hiện nay rất nhiều người tự mua thuốc để điều trị cho dù chưa biết bị bệnh gì, nghĩa là cứ thấy ho, hắt hơi, sổ mũi hoặc hơi sốt là mua kháng sinh về dùng (thậm chí, các bậc cha mẹ cũng tự ý mua thuốc về cho con uống). Hậu quả là nhiều người bệnh đã bị uống kháng sinh “oan”. Muốn biết có nên dùng kháng sinh hay không, nhất thiết phải có ý kiến của bác sĩ.
- Nên sử dụng kháng sinh theo sự chỉ định của bác sĩ điều trị: Khi bác sĩ đã tìm ra nguyên nhân và chẩn đoán chắc chắn có mắc bệnh nhiễm khuẩn thì lúc đó bác sĩ sẽ chỉ định cụ thể dùng thuốc kháng sinh gì, liều lượng mỗi ngày dùng bao nhiêu là đủ, cần uống thuốc trong bao lâu và đường dùng thuốc bằng cách nào (uống, tiêm...). Khi đã có đơn thuốc, cần tuân thủ đúng chỉ định, tuyệt đối không tự ý đổi tên thuốc.
- Không nên dùng lại kháng sinh đã dùng còn thừa: Đây cũng là thói quen thường thấy của khá nhiều người bệnh, thấy rằng trước đây mình được bác sĩ kê đơn thuốc này có hiệu quả, nay có biểu hiện giống lần trước là mang ra sử dụng.
![]() Kiên quyết thực hiện nhà thuốc đạt chuẩn GPP.
|
- Không nên chỉ người khác sử dụng kháng sinh khi thấy bệnh na ná giống mình.
Đối với thầy thuốc:
- Cần cẩn trọng khi kê đơn thuốc cho bệnh nhân: khám kỹ để biết rõ kngười bệnh mắc bệnh gì và kê đơn thuốc phù hợp, tránh kê thuốc khi không cần thiết.
- Không nên vì chiều ý người bệnh muốn nhanh khỏi bệnh mà kê loại thuốc có tác dụng nhanh, mạnh, đắt tiền.
- Không vì lợi ích cá nhân: không nên vì lợi nhuận của các hãng hoặc công ty dược mang lại mà bác sĩ kê đơn thuốc cho bệnh nhân mua thuốc của các hãng đó. Chỉ kê loại thuốc cần cho bệnh nhân.
Đối với nhà thuốc:
- Cần tuân thủ nghiêm ngặt quy định bán thuốc theo đơn, có quyền từ chối bán thuốc cho người bệnh khi không có đơn của bác sĩ.
- Có thể tư vấn cho người bệnh hiểu rõ vì sao cần thiết phải mang đơn khi đi mua thuốc.
Về phía nhà quản lý:
- Cần tăng cường đào tạo liên tục, cập nhật kiến thức chuyên môn cho cán bộ y tế, thường xuyên kiểm tra giám sát việc kê đơn của bác sĩ theo đúng quy định.
Chấn chỉnh hoạt động nhà thuốc, kiên quyết xử lý các nhà thuốc không đạt chuẩn GPP, giám sát chặt chẽ chất lượng thuốc, không để thuốc kém chất lượng, thuốc giả lưu hành trên thị trường…
Kháng sinh có lợi và có hại, suy cho cùng thuốc kháng sinh chỉ là phương tiện chữa bệnh do con người sử dụng. Vì vậy bản thân kháng sinh không có lỗi trong những trường hợp kháng thuốc mà chính cách sử dụng sai lầm và thiếu hiểu biết của con người đã đưa người bệnh đến gần hơn với nguy hiểm.
Acetaminophen (paracetamol) đã được sử dụng để hạ sốt và giảm đau từ nhẹ đến trung bình. Thuốc có sẵn ở dạng đơn chất hoặc kết hợp với các thuốc khác để điều trị các triệu chứng cảm lạnh, cúm, đau đầu và viêm xương khớp. Tên thương mại phổ biến là Tylenol. Theo Tạp chí Wall Street Journal đưa tin, Bộ trưởng Y tế Hoa Kỳ dự định thông tin về mối liên quan giữa chứng tự kỷ và việc phơi nhiễm với thuốc giảm đau và hạ sốt Tylenol trước khi sinh, như sau:
Tiêm chủng cho mẹ giúp bảo vệ cả mẹ và thai nhi khỏi một số bệnh nhiễm trùng. Lý tưởng nhất là tiêm chủng trước khi thụ thai, nhưng trong một số trường hợp, việc tiêm chủng trong thai kỳ cũng được chỉ định.
Nhiều bằng chứng cho thấy rằng, việc sử dụng kháng sinh ở bệnh nhân tiên lượng nặng bị suy thận cấp (STC) thường không đạt được mục tiêu dược lực học và tỉ lệ tử vong cao liên quan đến nhiễm trùng. Do đó, bài viết này đánh giá những thay đổi thông số về dược động học và dược lực học trên bệnh nhân nặng có STC và đề xuất những giải pháp để có thể tối ưu liều dùng kháng sinh trên những bệnh nhân này.
Trong bản dự thảo cuối cùng, Viện Y tế và Chất lượng Điều trị Quốc gia Anh (NICE) cho biết relugolix-estradiol-norethisterone là một lựa chọn để điều trị các triệu chứng lạc nội mạc tử cung ở những người phụ nữ trưởng thành đang trong độ tuổi sinh sản, nhưng không đáp ứng với phương pháp điều trị nội khoa hoặc phẫu thuật trước đó.
Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC), có khoảng 10% bệnh nhân tại Mỹ được báo cáo bị dị ứng penicillin. Tuy nhiên, dưới 1% bị dị ứng qua trung gian IgE (loại 1) và các nhà nghiên cứu lưu ý rằng, khoảng 80% bệnh nhân này sẽ mất độ nhạy cảm sau 10 năm. Hơn nữa, CDC khuyến nghị cần xác định những bệnh nhân không thực sự dị ứng penicillin để giảm việc sử dụng kháng sinh phổ rộng không cần thiết. Phản ứng chéo giữa penicillin và cephalosporinlà rất hiếm, nhưng nhiều bác sĩ tránh kê đơn cephalosporin cho bệnh nhân bị dị ứng penicillin, dẫn đến tăng cường sử dụng các loại kháng sinh khác như là quinolon, macrolid, clindamycin, carbapenem và vancomycin, thường gặp nhiều tác dụng phụ hơn, tăng chi phí chăm sóc sức khỏe và góp phần vào tình trạng đề kháng kháng sinh
Độc tính trên thận do thuốc là nguyên nhân phổ biến gây ra tổn thương thận cấp tính (AKI) và kháng sinh (KS) là một trong những nhóm thuốc lớn nhất liên quan đến AKI. Cơ chế gây độc tính trên thận do KS bao gồm tổn thương cầu thận, tổn thương hoặc rối loạn chức năng ống thận, tắc nghẽn ống lượn xa do trụ niệu và viêm thận kẽ cấp tính (AIN) do phản ứng quá mẫn loại IV (loại chậm). Các biểu hiện lâm sàng của độc tính trên thận do KS bao gồm hoại tử ống thận cấp (ATN), AIN và hội chứng Fanconi.