Hiệu quả của progesteron và progestin trong phòng ngừa sinh non
Ds Thân Thị Mỹ Linh – Khoa Dược
(lược dịch)
1. Gánh nặng của non sinh và những thách thức trong phòng chống
Sinh non xảy ra khi trẻ được sinh ra trước tuần thứ 37 của thai kỳ. Khoảng 70% các ca sinh non xảy ra một cách tự nhiên, 30% các ca sinh non còn lại có thể do các quyết định y khoa và là kết quả của các bệnh lý trên người mẹ hoặc trên thai nhi (ví dụ: tiền sản giật, thai chậm tăng trưởng trong tử cung, nhau thai tiền đạo…).
Tỷ lệ sinh non ở Hoa Kỳ đã tăng hàng năm từ 9,4% năm 1980 lên đỉnh điểm 12,8% vào năm 2006. Gần đây tỷ lệ này đã giảm và đến năm 2013 là 11,4% . Sinh non là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong cho trẻ sơ sinh và khuyết tật về thần kinh ở trẻ em với gánh nặng lên tới 26 tỷ USD cho hệ thống y tế Mỹ mỗi năm.
Yếu tố nguy cơ sinh non bao gồm: tiền sử sinh non trước đó, người Mỹ gốc Phi, chảy máu âm đạo, chỉ số khối cơ thể thấp, đa thai, nhiễm trùng đường sinh dục... Những khó chịu thường gặp trong quá trình mang thai như đau lưng nhưng không đau vùng chậu cũng có thể là dấu hiệu của một cơn co tử cung. Nhận biết các yếu tố nguy cơ, dấu hiệu và triệu chứng của sinh non rất quan trọng để phòng ngừa và điều trị kịp thời.
2. Phân loại progestogen
Progestogen là 1 trong 5 loại hormone steroid. Progestogen tự nhiên và tổng hợp: progestogen chia thành 2 nhóm, nhóm ngoại sinh (progestin) và nhóm nội sinh (progesteron).
Dược động học: progestogen gắn kết và kích hoạt các thụ thể progesteron. Hoạt động này giúp tử cung không hoạt động và ức chế quá trình chín của cổ tử cung, do đó ngăn ngừa được sinh non.
Progesteron: Vào đầu thai kỳ, progesteron được sản xuất bởi hoàng thể để duy trì thai nhi trong tam cá nguyệt đầu tiên cho đến khi có nhau thai. Ở giai đoạn sau, progesteron điều chỉnh các phản ứng miễn dịch bằng cách giảm sản xuất các cytokine tiền viêm và giãn cơ trơn, ngăn chặn hoạt động của oxytocin và ức chế sự hình thành của phản ứng kích hoạt co cơ trơn tử cung. Progesteron cũng ngăn cản quá trình tự hủy của tế bào màng bào thai.
Progestin: 17 hydroxyprogesteron caproat (17OHPC) là một progestin tổng hợp, đó là một dẫn xuất của hormon tự nhiên - 17 hydroxyprogesteron. Thuốc chuyển hóa qua gan do đó tránh sử dụng cho bệnh nhân có bệnh lý gan nặng. Tác dụng chính của nó chủ yếu lên cổ tử cung bằng cách trì hoãn sự suy giảm collagen và giảm sản sinh chất tiền viêm interleukin-1b. Không giống như progesteron, 17OHPC chưa thấy có bất kỳ tác dụng trực tiếp trên tế bào cơ tử cung và nội mạc tử cung.
3. Khuyến cáo sử dụng progestogen
Progestogen được khuyến cáo để phòng ngừa sinh non tự phát PTB trong 2 nhóm phụ nữ: phụ nữ có tiền sử sinh non tự phát trước đó và phụ nữ có cổ tử cung ngắn (< 20mm) trong tam cá nguyệt giữa.
Tình trạng lâm sàng |
Chỉ định bổ sung |
Lưu ý |
Đơn thai, tiền sử sinh non tự phát |
Có |
17OHPC 250 mg tiêm bắp mỗi tuần, bắt đầu từ 16-20 tuần cho đến 36 tuần Đo chiều dài cổ tử cung từ tuần 18 Cân nhắc khâu eo CTC nếu chiều dài cổ tử cung ít hơn 25 mm |
Đơn thai, không có tiền sử sinh non tự phát, cổ tử cung ngắn (< 20mm) |
Có |
Sử dụng progesterone đường âm đạo cho đến 36 tuần Có thể dùng dạng gel hoặc viên đặt âm đạo |
Đơn thai, tiền sử đa thai có sinh non tự phát |
Cân nhắc |
17OHPC 250 mg tiêm bắp mỗi tuần, bắt đầu từ 16-20 tuần cho đến 36 tuần Đo chiều dài cổ tử cung từ tuần 18 |
Đa thai, có tiền sử sinh non tự phát |
Cân nhắc |
17OHP 250 mg tiêm bắp mỗi tuần, bắt đầu từ 16-20 tuần cho đến 36 tuần |
Đa thai, không có tiền sử sinh non tự phát, chiều dài cổ tử cung bình thường |
Không |
Không sử dụng progesteron
|
Đa thai, không có tiền sử sinh non tự phát, cổ tử cung ngắn |
Cân nhắc |
Sử dụng progesterone đường âm đạo cho đến 36 tuần Có thể dùng dạng gel hoặc viên đặt âm đạo |
Thai non tháng hoặc chuyển dạ sớm |
Không |
Không sử dụng progesteron
|
Phụ nữ có tiền sử sinh non tự phát
17OHPC được chấp thuận để dự phòng sinh non tự phát ở những phụ nữ đơn thai có tiền sử sinh non tự phát từ 16 tuần đến 36 tuần 6 ngày. Nó đã được chứng minh giảm nguy cơ sinh non tái diễn từ 30% đến 40%.
17OHPC cũng liên quan với giảm nguy cơ xuất huyết não thất và viêm ruột hoại tử ở trẻ sơ sinh.
Có rất ít dữ liệu chứng minh lợi ích của việc bổ sung 17OHPC để phòng ngừa sinh non tự phát cho những phụ nữ đa thai không có tiền sử sinh non tự phát và những phụ nữ đa thai có tiền sử sinh non tự phát.
Thử nghiệm ngẫu nhiên đã không chứng minh được lợi ích của 17OHPC cho nhựng phụ nữ mang thai có các tình trạng : đa thai, thai non tháng hoặc cổ tử cung ngắn.
Phụ nữ có cổ tử cung ngắn (<20 mm) trong tam cá nguyệt giữa
Mặc dù không được FDA phê chuẩn, việc sử dụng progesterone đường âm đạo được khuyến khích để giảm nguy cơ sinh non tự phát ở phụ nữ mang thai có chiều dài cổ tử cung ngắn (<20 mm) được xác định bằng siêu âm qua ngã âm đạo giữa tuần thứ 16 và tuần thứ 26 ở những phụ nữ không có tiền sử sinh non tự phát.
Chưa có lợi ích rõ ràng và cũng chưa có tác hại rõ rệt của việc sử dụng progesteron đường âm đạo có những thai phụ có cổ tử cung ngắn.
Chỉ định progestogen trong dự phòng sinh non
17OHPC với liều 250 mg tiêm bắp 1 lần/tuần; bắt đầu từ tuần 16 – 21 của thai kỳ cho đến tuần 36.
Progesterone dạng tự nhiên nên được dùng đường âm đạo. Đường dùng này giúp tăng khả dụng sinh học vào tử cung và cổ tử cung bằng cách tránh chuyển hóa lần đầu qua gan. Dạng gel có chứa 90 mg progesterone vi tinh thể, thuốc viên đặt âm đạo chứa 100- và 200 mg progesterone vi tinh thể.
Bổ sung progesterone bằng đường uống, mặc dù được sử dụng trong các liệu pháp hỗ trợ sinh sản nhưng không sử dụng để phòng ngừa sinh non trong sản khoa.
Kết luận
Progestogen đóng một vai trò trong việc ngăn ngừa sinh non tự phát trong 2 nhóm phụ nữ: phụ nữ có tiền sử sinh non đơn thai tự phát và phụ nữ có cổ tử cung ngắn trong tam cá nguyệt giữa.
Tài liệu tham khảo
http://www.medscape.org/viewarticle/853587
Tiêm chủng cho mẹ giúp bảo vệ cả mẹ và thai nhi khỏi một số bệnh nhiễm trùng. Lý tưởng nhất là tiêm chủng trước khi thụ thai, nhưng trong một số trường hợp, việc tiêm chủng trong thai kỳ cũng được chỉ định.
Nhiều bằng chứng cho thấy rằng, việc sử dụng kháng sinh ở bệnh nhân tiên lượng nặng bị suy thận cấp (STC) thường không đạt được mục tiêu dược lực học và tỉ lệ tử vong cao liên quan đến nhiễm trùng. Do đó, bài viết này đánh giá những thay đổi thông số về dược động học và dược lực học trên bệnh nhân nặng có STC và đề xuất những giải pháp để có thể tối ưu liều dùng kháng sinh trên những bệnh nhân này.
Trong bản dự thảo cuối cùng, Viện Y tế và Chất lượng Điều trị Quốc gia Anh (NICE) cho biết relugolix-estradiol-norethisterone là một lựa chọn để điều trị các triệu chứng lạc nội mạc tử cung ở những người phụ nữ trưởng thành đang trong độ tuổi sinh sản, nhưng không đáp ứng với phương pháp điều trị nội khoa hoặc phẫu thuật trước đó.
Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC), có khoảng 10% bệnh nhân tại Mỹ được báo cáo bị dị ứng penicillin. Tuy nhiên, dưới 1% bị dị ứng qua trung gian IgE (loại 1) và các nhà nghiên cứu lưu ý rằng, khoảng 80% bệnh nhân này sẽ mất độ nhạy cảm sau 10 năm. Hơn nữa, CDC khuyến nghị cần xác định những bệnh nhân không thực sự dị ứng penicillin để giảm việc sử dụng kháng sinh phổ rộng không cần thiết. Phản ứng chéo giữa penicillin và cephalosporinlà rất hiếm, nhưng nhiều bác sĩ tránh kê đơn cephalosporin cho bệnh nhân bị dị ứng penicillin, dẫn đến tăng cường sử dụng các loại kháng sinh khác như là quinolon, macrolid, clindamycin, carbapenem và vancomycin, thường gặp nhiều tác dụng phụ hơn, tăng chi phí chăm sóc sức khỏe và góp phần vào tình trạng đề kháng kháng sinh
Độc tính trên thận do thuốc là nguyên nhân phổ biến gây ra tổn thương thận cấp tính (AKI) và kháng sinh (KS) là một trong những nhóm thuốc lớn nhất liên quan đến AKI. Cơ chế gây độc tính trên thận do KS bao gồm tổn thương cầu thận, tổn thương hoặc rối loạn chức năng ống thận, tắc nghẽn ống lượn xa do trụ niệu và viêm thận kẽ cấp tính (AIN) do phản ứng quá mẫn loại IV (loại chậm). Các biểu hiện lâm sàng của độc tính trên thận do KS bao gồm hoại tử ống thận cấp (ATN), AIN và hội chứng Fanconi.
Trong 6 tháng đầu năm 2025, Bệnh viện Từ Dũ ghi nhận 204 báo cáo ADR, tăng 1,3 lần so với cùng kỳ năm 2024 (160 báo cáo).