Ho và các món ăn dưỡng sinh
Ds. Huỳnh Kim Hằng
Khoa Dược – BV Từ Dũ
Ho là một trong những triệu chứng thường gặp nhất trong các bệnh hô hấp, cũng là một phản ứng tự bảo vệ của cơ thể để tống những dị vật bên ngoài xâm nhập và chất phân tiết trong đường hô hấp.
Nguyên nhân
Theo Đông y, ho là do ăn uống không hợp lý, tì hư sinh đàm hoặc ngoại cảm phong hàn, tà phong nhiệt và táo nhiệt dẫn đến
![]() |
phế khí thượng nghịch gây ra. Do tì chủ quản việc tiêu hóa thức ăn, hấp thu, trao đổi nước, nên nếu tì hư thì chức năng tiêu hóa suy giảm, việc trao đổi nước thất thường, nước dừng lại trong cơ thể quá lâu sẽ sinh đàm.
Ho còn do ô nhiễm không khí, hít bụi quá nhiều và áp lực công việc lớn, nghỉ ngơi không đủ. Đặc biệt khi ăn quá nhiều thức ăn hàn lương hay ngoại cảm phong hàn, các nhân tố gây bệnh sẽ đi qua miệng, mũi, phế quản ảnh hưởng đến phổi, khiến chức năng phổi bị tổn hại gây ra ho.
Một số loại ho qua chữa trị sẽ chóng khỏi, nhưng có loại ho dai dẳng khó chữa, ho lâu không khỏi. Về lâm sàng thì ho có đàm liên tục hai năm trở lên, mỗi năm vài ba tháng thì thường là bị viêm khí quản mạn tính. Ho tái phát nhiều lần đi kèm khạc ra máu, ho có liên quan đến tư thế cơ thể, thường là bị giãn phế quản, ho khan kèm sốt về chiều, hai má ửng đỏ thường bị lao phổi. Ho kèm đau ngực khó chịu, tiếng ho như xé thường là do ung thư phổi. Ho kèm suyễn, cứ gặp chất kích thích là tái phát thường là bị hen suyễn dị ứng.
Nguyên tắc dưỡng sinh
Nên ăn uống thanh đạm, ăn nhiều rau quả tươi, đậu nành và chế phẩm đậu, củ cải, rau cần, cải thảo, bách hợp, cải bố xôi, sơn dược, lê, táo, hồng, anh đào…Dân gian có bài thuốc “lê tươi nấu đường phèn trị ho”. Hạn chế không ăn quýt, cam, tôm, thức ăn cay, nhiều dầu mỡ, không được hút thuốc lá.
Đối với trẻ: Khi trẻ bị ho, bế trẻ nằm nghiêng hay bế nằm ngửa, vỗ nhẹ lưng trẻ để đàm trong phổi và phế quản long ra, chảy về khí quản lớn và thải ra, đồng thời thúc đẩy tuần hoàn máu tim và phổi, hỗ trợ hô hấp làm bệnh chóng khỏi.
CÁC MÓN ĂN DƯỠNG SINH HỮU ÍCH
1. Canh lê tuyết, ngân nhĩ, xuyên bối:
![]() |
Nguyên liệu: Lê tuyết 1 quả, ngân nhĩ 10g, xuyên bối 6 cây.
Gia vị: một ít đường phèn
Cách làm: Lê rửa sạch thái miếng, ngân nhĩ ngâm nước ấm cho nở, bỏ cuống rửa sạch. Cho lê, ngân nhĩ, xuyên bối vào nồi đất, cho nước đun sôi, vặn lửa nhỏ nấu 40 phút, cho đường phèn vào nấu tan.
Công dụng: Lê tính mát, vị ngọt hơi chua, nhập kinh phế, vị, có tác dụng sinh tân nhuận táo, thanh nhiệt hóa đờm. Ngân nhĩ giúp tư âm nhuận phế. Xuyên bối có tác dụng nhuận phế trị ho. Món canh này phù hợp với chứng ho do phế táo.
2. Nước mía sơn dược:
Nguyên liệu: Sơn dược lượng vừa đủ dùng, nước mía 1 ly.
Cách làm: Sơn dược bỏ vỏ, rửa sạch, thái miếng giã nhuyễn. Cho sơn dược vào máy ép lấy nước. Khi uống nên hâm nóng.
Công dụng: Sơn dược có công dụng nhuận hoạt, ích phế khí, dưỡng phế âm, trị các chứng bệnh như phế hư hóa đàm, ho lâu ngày. Mía nhập kinh phế, có tác dụng thanh nhiệt, sinh tân nhuận khí, nhuận táo, bổ phế, có thể trị ho hen, ho khan không đàm, khạc đàm có máu do thương tân, tâm phiền miệng khát, phế táo bởi bệnh nhiệt gây ra.
2. Cải rổ xào bách hợp:
Nguyên liệu: Cải rổ 0,5kg, bách hợp 100g. Gia vị: nước lèo, muối, đường trắng, rượu gia vị, nước gừng, bột năng ướt, dầu hào,
![]() |
bột ngọt.
Cách làm: Tất cả rửa sạch, cải rổ cắt khúc 6cm, bách hợp tách ra, Chờ dầu nóng cho cải vào xào, nêm rượu gia vị, nước lèo, muối, nước gừng vào xào chín. Cho đường trắng, bột ngọt, bách hợp vào xào. Dùng bột năng làm sệt, cho dầu hào vào trộn đều.
Công dụng: Bách hợp chứa alkaloid và chất dinh dưỡng, có tác dụng bồi bổ rất tốt. Người có bệnh đường phế quản ăn bách hợp sẽ cải thiện bệnh tình. Ăn thường xuyên có thể thanh phế nhuận táo, hóa đàm trị ho. Cải rổ vị ngọt, cay tính mát, có tác dụng thanh nhiệt giải độc, lương huyết thông lâm. Món này phù hợp với người âm hư ho lâu, trong đàm có máu. Những người bị ho phong hàn, tì vị hư nhược, hàn thấp trệ lâu, thận dương suy thoái không được ăn món này.
3. Cháo bobo cà chua:
Nguyên liệu: Bobo (dĩ nhân) 25g, cà chua 1 quả, gạo trắng 40g, mật ong một ít.
Cách làm: Cà chua bỏ vỏ cắt miếng, bobo và gạo vo sạch nấu thành cháo. Khi cháo chín nhừ cho cà chua vào nêm chút mật ong để điều vị.
Công dụng: Người bị ho cần ăn nhiều thức ăn giàu vitamine và khoáng chất sẽ giúp phục hồi chức năng trao đổi chất của cơ thể, chữa trị cảm mạo. Một số loại thức ăn giàu vitamine A như cà chua, cà rốt rất có ích cho việc khôi phục niêm mạc đường hô hấp. Bobo tính vị ngọt, hơi hàn, nhập kinh phế có tác dụng thanh nhiệt bài mủ, làm giãn mạch máu phổi hữu hiệu, cải thiện tuần hoàn máu của phổi.
4. Bài thuốc trị ho lâu ngày không khỏi:
Nguyên liệu: Gừng tươi, hạnh đào, dầu vừng, đường phèn, mật ong mỗi thứ 120g.
![]() |
Cách làm: Gừng, hạnh đào thái nhỏ sau đó cho vào dầu vừng, đường phèn, mật ong vào ấm đất, đun nhỏ lửa khoảng 1 giờ đến khi có màu đỏ sẫm là được. Để nguội cho vào lọ dùng dần: Mỗi ngày 3 lần, mỗi lần 1 muỗng ăn canh (có thể pha với nước lọc cho dễ uống)
Nguyên liệu: Một chai rượu Whiskey nhỏ, 1 chai mật ong nhỏ và thêm vài trái chanh (chanh xanh hay vàng đều được).
Cách làm : 1 thìa café rượu, 1 thìa cafe mật ong, cho 2 thứ vào 1 cái tách rồi nặn vào đó 10 giọt chanh (chanh muối càng tốt), quậy đều. Dùng 1 nắp nhựa đậy trên cái tách rồi bỏ vào microwave đun trong 10 giây (chỉ 10 giây thôi!), sau đó lấy ra dùng thìa quậy đều rồi nhâm nhi từng thìa một cho đến hết. Dùng trước khi đi ngủ: tối 1 lần, sáng thức dậy 1 lần Và buổi trưa 1 lần nữa .
Công dụng: Là bài thuốc trị ho lâu ngày không khỏi của người Mexico.
5. Bài thuốc trị ho ra máu:
Nguyên liệu: Chanh 3 quả, mật mía 30ml, nước 750ml.
Cách làm: Tất cả hỗn hợp trên sắc còn khoảng 1/3, lấy chanh ra thái nhỏ trộn lại vào nước sắc. Uống ngày một lần, ăn cả bã, uống 3 ngày liên tiếp.
Tài liệu tham khảo
- 1000 Món canh dưỡng sinh trị bệnh - Nhà XB Mỹ Thuật 2010
- 1000 Món rau quả dưỡng sinh trị bệnh – NXB Mỹ Thuật 2010
- Cây thuốc – Vị thuốc – Bài thuốc, Nhà XB Hà Nội
- Bách khoa Y học thường thức trong gia đình - 2007
- 500 Bài thuốc Đông Y gia truyền trị bách bệnh, NXB Từ điển bách khoa 2010
- 600 Món ăn từ thịt trị bệnh, NXB Tổng hợp TP HCM, 2010
Tư liệu ảnh:
- oxycaoap.com
- silversky611.wordpress.com
- timgiupviec.net
- forum.simple.com.vn
- forum.bacsi.com
Kháng sinh chiếm gần 80% tổng số đơn thuốc được kê trong thời kỳ mang thai, và khoảng 20%–25% phụ nữ sẽ sử dụng kháng sinh trong thai kỳ. Các bệnh nhiễm trùng phổ biến nhất bao gồm nhiễm trùng đường tiết niệu (UTIs), nhiễm trùng đường sinh dục, nhiễm trùng da - mô mềm và nhiễm trùng đường hô hấp. Việc sử dụng kháng sinh trong thai kỳ luôn cần được cân nhắc giữa nguy cơ và lợi ích.
Lạc nội mạc tử cung là bệnh lý viêm mạn tính phụ thuộc estrogen, ảnh hưởng khoảng 10% phụ nữ trong độ tuổi sinh sản.
Bệnh đặc trưng bởi sự hiện diện của mô nội mạc tử cung ngoài buồng tử cung, gây đau bụng kinh, đau khi giao hợp, đau vùng chậu kéo dài và vô sinh, làm giảm đáng kể chất lượng cuộc sống.
Điều trị cần được cá thể hóa, tùy theo mức độ triệu chứng, vị trí tổn thương và nhu cầu sinh sản. Hướng dẫn hiện nay khuyến nghị kết hợp giữa điều trị nội khoa, ngoại khoa và hỗ trợ không dùng thuốc.
Phản ứng có hại của thuốc (ADR) là vấn đề thường gặp trong thực hành lâm sàng và có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ, tính mạng người bệnh nếu không được nhận biết sớm và xử trí kịp thời.
Acetaminophen (paracetamol) đã được sử dụng để hạ sốt và giảm đau từ nhẹ đến trung bình. Thuốc có sẵn ở dạng đơn chất hoặc kết hợp với các thuốc khác để điều trị các triệu chứng cảm lạnh, cúm, đau đầu và viêm xương khớp. Tên thương mại phổ biến là Tylenol. Theo Tạp chí Wall Street Journal đưa tin, Bộ trưởng Y tế Hoa Kỳ dự định thông tin về mối liên quan giữa chứng tự kỷ và việc phơi nhiễm với thuốc giảm đau và hạ sốt Tylenol trước khi sinh, như sau:
Tiêm chủng cho mẹ giúp bảo vệ cả mẹ và thai nhi khỏi một số bệnh nhiễm trùng. Lý tưởng nhất là tiêm chủng trước khi thụ thai, nhưng trong một số trường hợp, việc tiêm chủng trong thai kỳ cũng được chỉ định.
Nhiều bằng chứng cho thấy rằng, việc sử dụng kháng sinh ở bệnh nhân tiên lượng nặng bị suy thận cấp (STC) thường không đạt được mục tiêu dược lực học và tỉ lệ tử vong cao liên quan đến nhiễm trùng. Do đó, bài viết này đánh giá những thay đổi thông số về dược động học và dược lực học trên bệnh nhân nặng có STC và đề xuất những giải pháp để có thể tối ưu liều dùng kháng sinh trên những bệnh nhân này.







