Hội chứng người đỏ do Vancomycin
DS. Lê Bảo Trang – Khoa Dược
Dịch tễ (1)
Hội chứng người đỏ (Red man syndrome – RMS) là phản ứng không mong muốn thường gặp nhất với tỷ lệ 4% đến 50% khi truyền tĩnh mạch Vancomycin.
Cơ chế (2)
RMS là một dạng của phản ứng giả dị ứng với dấu hiệu và triệu chứng tương tự dị ứng thuốc, cơ chế miễn dịch qua trung gian IgE chưa được chứng minh. Vancomycin hoạt hóa trực tiếp tế bào mast, phóng thích các chất trung gian vận mạch như histamine.
Mối liên quan đến tốc độ truyền (1,2)
RMS thường liên quan đến việc truyền nhanh Vancomycin (truyền 1 g dưới 1 giờ).
Để ngăn ngừa RMS, Vancomycin nên được truyền không quá 10mg/phút hoặc thời gian truyền 1 g Vancomycin tối thiểu là 100 phút (ưu tiên lựa chọn có tốc độ truyền chậm hơn).
Đặc điểm lâm sàng (1,2)
Đặc điểm lâm sàng của RMS bao gồm đỏ bừng, ban đỏ và ngứa, thường xảy ra ở phần thân trên của cơ thể, cổ và mặt hơn là phần thân dưới. Đau và co thắt cơ ở vùng cổ và ngực, có thể xảy ra khó thở và hạ huyết áp. RMS hiếm gây nguy hiểm đến tính mạng, mặc dù có thể xảy ra độc tính trên hệ tim mạch và thậm chí là ngưng tim.
RMS thường xảy ra trong vòng 4 đến 10 phút từ khi bắt đầu truyền tĩnh mạch liều đầu Vancomycin. Hội chứng này có thể xảy ra trong quá trình truyền, vừa mới kết thúc truyền hoặc ở các lần truyền tiếp theo trong vòng 7 ngày.
Điều trị hội chứng người đỏ (2)
Phản ứng nhẹ (đỏ bừng nhưng không gây khó chịu cho bệnh nhân), triệu chứng đặc trưng được cải thiện trong vòng vài phút và không cần sử dụng thuốc kháng histamine. Có thể truyền lại Vancomycin với tốc độ truyền bằng một nửa tốc độ trước đó.
Phản ứng ở mức độ vừa (bệnh nhân cảm thấy khó chịu vì đỏ bừng hoặc ban đỏ tuy nhiên huyết động học ổn định và không đau ngực, co thắt cơ), nên ngưng truyền và điều trị bằng thuốc diphenhydramine (50mg đường uống hoặc đường tĩnh mạch), và famotidine (20mg tiêm tĩnh mạch). Có thể truyền lại Vancomycin với tốc độ truyền bằng một nửa tốc độ trước đó hoặc 10mg/phút (ưu tiên lựa chọn có tốc độ truyền chậm hơn).
Phản ứng ở mức độ nặng (co thắt cơ, đau ngực hoặc hạ huyết áp), ngưng truyền, điều trị với diphenhydramine (50mg tĩnh mạch) và famotidine (20mg tĩnh mạch) và nếu có hạ huyết áp cần phải truyền dịch. Nếu triệu chứng được cải thiện, có thể bắt đầu truyền lại vancomycin trong vòng 4 giờ hoặc dài hơn 4 giờ. Nếu tiếp tục sử dụng, nên sử dụng thuốc kháng histamine trước mỗi liều, truyền dài hơn 4 giờ và tiếp tục theo dõi huyết động học trong quá trình truyền.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Martel TJ, Jamil RT, King KC. Red Man Syndrome. [Updated 2020 Nov 30]. In: StatPearls [Internet]. Treasure Island (FL): StatPearls Publishing; 2020 Jan-. Available from: https://www.ncbi.nlm.nih.gov/books/NBK482506/.
2. Peter F Weller (2020), Vancomycin hypersensitivity, viewed Jan 2021. Available: https://www.uptodate.com/contents/vancomycin-hypersensitivity?source =history _widget
Trong giai đoạn năm 2018-2021, Mạng lưới An toàn Chăm sóc Sức khỏe Quốc gia (NHSN) đã báo cáo rằng 0,4% (n = 1.951) các ca nhiễm trùng mắc phải tại bệnh viện (HAI) ở Hoa Kỳ nguyên nhân do Acinetobacter spp. gây ra. Trong số này có 28-45% không nhạy cảm với kháng sinh carbapenem (tức là trung gian hoặc đề kháng).
Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng (RCT), BLING III cung cấp bằng chứng việc sử dụng truyền liên tục (CI) so với truyền ngắt quãng piperacillin/tazobactam và meropenem trên bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Điều này được củng cố bởi một đánh giá tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp (SRMA) của 18 RCT về CI hoặc truyền kéo dài (EI) (thời gian từ 3–4 giờ) các kháng sinh beta-lactam. Thách thức hiện nay là chuyển đổi CI như một tiêu chuẩn chăm sóc cho bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Các cân nhắc chính bao gồm các vấn đề sau:
Các nhà nghiên cứu thuộc Đại học Alabama tại Birmingham, đã tiến hành phân tích dữ liệu thứ cấp trên đối tượng phụ nữ tăng huyết áp mạn tính trong thai kỳ, so sánh với phương pháp điều trị chính. Tăng huyết áp mạn tính nhẹ trong nghiên cứu được định nghĩa là huyết áp 140-159/90-104 mmHg trước 20 tuần của thai kỳ.
Nhiễm trùng huyết – sepsis - vẫn là một trong những nguyên nhân gây tử vong lớn nhất trên thế giới, Tổ chức Y tế Thế giới ước tính 11 triệu người tử vong mỗi năm do tình trạng này. Các yếu tố chính của việc quản lý sepsis là chẩn đoán sớm, liệu pháp kháng sinh kinh nghiệm sớm và phù hợp, với biện pháp kiểm soát nguồn gây bệnh thích hợp và bảo tồn chức năng các cơ quan.
Sự ra đời của vắc-xin giúp chúng ta chủ động phòng chống các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm. Tổ chức y tế thế giới ước tính chương trình tiêm chủng hiện nay giúp ngăn ngừa 3,5-5 triệu ca tử vong mỗi năm do các bệnh như bạch hầu, uốn ván, ho gà, cúm và sởi [2].
Phòng ngừa suy nhược, mệt mỏi, đau nhức:
Hoạt động mỗi ngày đi bộ ngắn, tập các bài tập nhẹ nhàng. Giữ tinh thần ổn định
Chế độ ăn hợp lý trao đổi thêm với bác sĩ về dinh dưỡng bổ sung (thực phẩm giàu protein như thịt, cá, phô mai, sữa chua...). Uống nhiều nước, trừ khi có hướng dẫn khác.
Chườm khăn lạnh nếu có nhức mỏi, đau cơ.