Hướng dẫn cập nhật 2016 của RCOG về các thuốc sử dụng trong phòng ngừa và điều trị băng huyết sau sinh
DS. Huỳnh Thị Hồng Gấm (Lược dịch)
Khoa Dược - BV Từ Dũ
|
Thuốc |
Nội dung |
Mức độ chứng cứ |
|
Oxytocin và ergometrine-oxytocin |
“Phân tích gộp” của McDonald và cộng sự đã đề cập đến việc so sánh ergometrine-oxytocin với oxytocin trong dự phòng cho giai đoạn 3 chuyển dạ. Bài xem xét này chỉ ra rằng ergometrine-oxytocin (Syntometrine, Alliance, Chippenham, Wiltshire, Vương quốc Anh), oxytocin 5 IU và oxytocin 10 IU có hiệu quả tương tự trong phòng ngừa băng huyết sau sinh vượt quá 1.000ml. Với sử dụng định nghĩa băng huyết sau sinh là khi máu mất ít nhất 500ml, ergometrine-oxytocin có liên quan đến giảm nhẹ nguy cơ băng huyết sau sinh (Syntometrine so với oxytocin ở liều bất kỳ; OR 0.82, 95% CI 0.71-0.95). Có sự khác biệt đáng kể về tác dụng không mong muốn giữa ergometrine-oxytocin và oxytocin đơn trị về buồn nôn, nôn, nguy cơ tăng huyết áp gấp 5 lần ở ergometrine-oxytocin (OR 4.92, 958% CI 4.03-6.00). Do đó, cần phải cân nhắc giữa lợi ích trong việc giảm nhẹ nguy cơ băng huyết sau sinh và tác dụng không mong muốn có liên quan đến sử dụng ergometrine-oxytocin. Một nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng, sử dụng kết cục ban đầu của trị liệu bất kỳ là đờ tử cung hoặc băng huyết, đánh giá xem liệu liều cao của oxytocin sau sinh thường có hiệu quả hơn chế độ liều thấp trong phòng ngừa băng huyết sau sinh thường. So sánh với 10 IU, sử dụng oxytocin dự phòng 40 IU hay 80 IU nhìn chung không làm giảm điều trị tổng thể băng huyết sau sinh khi pha trong 500ml dung môi truyền trên 1 giờ cho sinh thường. |
I++
I+ |
|
Prostaglandins |
Sử dụng prostaglandins trong phòng ngừa băng huyết sau sinh là chủ đề của hai tổng quan Cochrane. Prostaglandins tiêm bắp (như carboprost, một chất tương tự 15-methyl prostaglandin F2α hoặc misoprostol (một chất tương tự prostaglandin E1 uống hoặc ngậm dưới lưỡi thích hợp hơn việc tiêm truyền thuốc tăng gò tử cung (oxytocin và/ hoặc ergometrine) trong dự phòng thường quy. Hơn nữa, một tổng quan hệ thống kết luận rằng oxytocin vượt trội hơn misoprostol trong phòng ngừa băng huyết sau sinh. Đánh giá bằng chứng cả tổng quan Cochrane cùng với cân nhắc các chuẩn thực hành của vương quốc Anh, đề nghị rằng, đối với phụ nữ sinh thường, tiêm bắp oxytocin 10 IU là một phác đồ lựa chọn dự phòng trong giai đoạn 3 chuyển dạ. Nên tiêm bắp oxytocin trong khi sinh sau khi sổ vai trước, hoặc ngay sau sinh trước khi kẹp và cắt dây rốn. Xu hướng này đã được xác nhận trong hướng dẫn chăm sóc chuyển dạ của NICE. |
I++
I+ |
|
Carbetocin |
Một tổng quan Cochrane đã đề cập đến việc sử dụng carbetoncin, một dẫn xuất của oxytocin tác dụng kéo dài, trong phòng ngừa băng huyết sau sinh. Carbetocin được cấp phép ở vương quốc Anh cho chỉ định phòng ngừa băng huyết sau sinh trong mổ lấy thai. Kết quả sử dụng carbetocin làm giảm đáng kể có ý nghĩa thống kê trong việc cần chỉ định thêm nữa các thuốc tăng gò tử cung so với oxytocin cho mổ lấy thai, nhưng không phải dành cho sinh thường. Tuy nhiên, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa carbetocin và oxytocin về nguy cơ băng huyết sau sinh. Các hướng dẫn từ Hiệp hội sản phụ khoa Canada khuyến nghị rằng nên sử dụng carbetocin (tiêm tĩnh mạch bolus 1 phút 100mcg) để ngăn ngừa băng huyết sau sinh trong mổ lấy thai chủ động. Các thử nghiệm ngẫu nhiên đã so sánh các thuốc tăng gò tử cung khác nhau (oxytocin, ergometrine-oxytocin, misoprostol, carbetocin và 15-methyl prostaglandin F2α ) trong dự phòng cho thai phụ mổ lấy thai. Đánh giá các bằng chứng từ những thử nghiệm này, cùng với cân nhắc các chuẩn thực hành của Vương quốc Anh, đã phát triển hướng dẫn của NICE về mổ lấy thai, trong đó khuyến nghị truyền tĩnh mạch chậm oxytocin 5 IU trong dự phòng mổ lấy thai. |
I++
I+
|
|
Tranexamic acid |
Tổng quan Cochrane đã đề cập đến việc sử dụng tranexamic acid trong ngăn ngừa băng huyết sau sinh trên thai phụ được xem có nguy cơ thấp. Bài tổng quan đã cho thấy thai phụ sử dụng bổ sung tĩnh mạch tranexamic acid 1 hoặc 0,5g thêm vào các thuốc tăng gò tử cung thông thường có lượng máu mất nhiều hơn 400ml hoặc 500ml ít phổ biến. Tranexamic acid có hiệu quả trong việc giảm tỷ lệ mắc mới của máu mất trên 1.000ml ở thai phụ mổ lấy thai (RR 0.53, 95% CI 0.23-0.78; 4 nghiên cứu; 1.534 thai phụ), nhưng không phải cho sanh thường. Lượng máu mất đến 2 giờ sau sinh thấp hơn ở nhóm thai phụ được chỉ định tranexamic acid tĩnh mạch sau sinh ( Giá trị khác biệt- 77,79ml; 95% CI -97.95 đến 57.64; 5 nghiên cứu; 1.186 thai phụ). Các tác giả của bài Tổng quan Cochrane về việc sử dụng tranexamic acid trong ngăn ngừa băng huyết sau sinh kết luận rằng cần có thêm những nghiên cứu về nguy cơ của các tác dụng không mong muốn nghiêm trọng, bao gồm huyết khối tĩnh mạch, và sử dụng tranexamic acid trên thai phụ được xem có nguy cơ cao băng huyết sau sinh. |
I++ |
Ghi chú:
Mức độ chứng cứ I++: Phân tích gộp chất lượng cao, tổng quan hệ thống của những thử nghiệm ngẫu nhiên có nhóm chứng hoặc thử nghiệm ngẫu nhiên có nhóm chứng với nguy cơ rất thấp của sai số hệ thống.
Mức độ chứng cứ I+: phân tích gộp được tiến hành tốt, tổng quan hệ thống của những thử nghiệm ngẫu nhiên có nhóm chứng hoặc thử nghiệm ngẫu nhiên có nhóm chứng với nguy cơ thấp của sai số hệ thống.
Nguồn
Prevention and Management of Postpartum Haemorrhage. An international journal of obstetrics and gynecology. Green – top Guideline № 52, December 2016.
Kháng sinh chiếm gần 80% tổng số đơn thuốc được kê trong thời kỳ mang thai, và khoảng 20%–25% phụ nữ sẽ sử dụng kháng sinh trong thai kỳ. Các bệnh nhiễm trùng phổ biến nhất bao gồm nhiễm trùng đường tiết niệu (UTIs), nhiễm trùng đường sinh dục, nhiễm trùng da - mô mềm và nhiễm trùng đường hô hấp. Việc sử dụng kháng sinh trong thai kỳ luôn cần được cân nhắc giữa nguy cơ và lợi ích.
Lạc nội mạc tử cung là bệnh lý viêm mạn tính phụ thuộc estrogen, ảnh hưởng khoảng 10% phụ nữ trong độ tuổi sinh sản.
Bệnh đặc trưng bởi sự hiện diện của mô nội mạc tử cung ngoài buồng tử cung, gây đau bụng kinh, đau khi giao hợp, đau vùng chậu kéo dài và vô sinh, làm giảm đáng kể chất lượng cuộc sống.
Điều trị cần được cá thể hóa, tùy theo mức độ triệu chứng, vị trí tổn thương và nhu cầu sinh sản. Hướng dẫn hiện nay khuyến nghị kết hợp giữa điều trị nội khoa, ngoại khoa và hỗ trợ không dùng thuốc.
Phản ứng có hại của thuốc (ADR) là vấn đề thường gặp trong thực hành lâm sàng và có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ, tính mạng người bệnh nếu không được nhận biết sớm và xử trí kịp thời.
Acetaminophen (paracetamol) đã được sử dụng để hạ sốt và giảm đau từ nhẹ đến trung bình. Thuốc có sẵn ở dạng đơn chất hoặc kết hợp với các thuốc khác để điều trị các triệu chứng cảm lạnh, cúm, đau đầu và viêm xương khớp. Tên thương mại phổ biến là Tylenol. Theo Tạp chí Wall Street Journal đưa tin, Bộ trưởng Y tế Hoa Kỳ dự định thông tin về mối liên quan giữa chứng tự kỷ và việc phơi nhiễm với thuốc giảm đau và hạ sốt Tylenol trước khi sinh, như sau:
Tiêm chủng cho mẹ giúp bảo vệ cả mẹ và thai nhi khỏi một số bệnh nhiễm trùng. Lý tưởng nhất là tiêm chủng trước khi thụ thai, nhưng trong một số trường hợp, việc tiêm chủng trong thai kỳ cũng được chỉ định.
Nhiều bằng chứng cho thấy rằng, việc sử dụng kháng sinh ở bệnh nhân tiên lượng nặng bị suy thận cấp (STC) thường không đạt được mục tiêu dược lực học và tỉ lệ tử vong cao liên quan đến nhiễm trùng. Do đó, bài viết này đánh giá những thay đổi thông số về dược động học và dược lực học trên bệnh nhân nặng có STC và đề xuất những giải pháp để có thể tối ưu liều dùng kháng sinh trên những bệnh nhân này.



