Hướng dẫn mới về giảm đau khi mang thai
Ths.Ds Thân Thị Mỹ Linh – Khoa Dược
(lược dịch)
Quản lý đau trong và sau khi mang thai là rất cần thiết để giảm thiểu nguy cơ gây ra các kết cục bất lợi cho mẹ và bé, nhưng lựa chọn loại thuốc giảm đau và thời gian giảm đau là quan trọng.
Bài viết này tổng hợp các khuyến cáo mới của RCOG ngày 13 tháng 12 năm 2018 hướng dẫn giảm đau cho phụ nữ trong giai đoạn mang thai và sau sinh sau khi ghi nhận những tác dụng bất lợi về việc sử dụng codein trong thời kỳ cho con bú.
Nhiều phụ nữ bị đau đầu, đau lưng, đau vùng chậu khi mang thai và cho con bú, ngoài ra một số phụ nữ có thể có các bệnh lý mãn tính cần phải sử dụng thuốc giảm đau kéo dài. Nếu đau không được kiểm soát tốt có thể tác động tiêu cực đến sức khỏe thể chất và tinh thần của người phụ nữ.
Phụ nữ mang thai nên được hướng dẫn thử các phương pháp điều trị phi y tế, như nghỉ ngơi đầy đủ, chườm nóng, chườm lạnh, xoa bóp, vật lý trị liệu và tập thể dục. Trong trường hợp cần dùng thuốc giảm đau, thai phụ nên tham vấn bác sĩ và nhân viên y tế để được chỉ định các loại thuốc phù hợp.
RCOG khuyến cáo rằng, nếu có thể, nên tránh tất cả các loại thuốc trong ba tháng đầu tiên thai kỳ khoảng thời gian từ tuần thứ 4 đến đến tuần thứ 10 tuần vì đây là giai đoạn dễ xảy ra các dị tật cho thai nhi. Tuy nhiên, một số thuốc giảm đau có thể vẫn được chỉ định nếu lợi ích của thuốc mang lại cho mẹ cao hơn nguy cơ gây ra cho thai.
Paracetamol
Paracetamol vẫn là thuốc giảm đau nên được lựa chọn ở phụ nữ mang thai và cho con bú vì các dữ liệu an toàn của thuốc. Mặc dù đã có ít dữ liệu ghi nhận mối liên quan giữa việc sử dụng paracetamol và các kết cục bất lợi như tăng tỷ lệ mắc hen suyễn ở trẻ em, các vấn đề về hành vi và chậm phát triển vận động và giao tiếp ở trẻ em có phơi nhiễm kéo dài trong thai kỳ.
NSAIDS
Tổng quan dữ liệu cho thấy rằng các thuốc chống viêm không steroid (NSAIDS) như ibuprofen, diclofenac, … nên tránh sử dụng trong ba tháng đầu thai kỳ và không nên dùng sau tuần thứ 30 thai kỳ do tăng nguy cơ em bé trừ khi có chỉ định lâm sàng bắt buộc phải sử dụng (chứng đau nửa đầu nghiêm trọng…)
Các bác sĩ khuyến cáo nên sử dụng với liều thấp nhất có hiệu quả trong thời gian ngắn nhất vì một số bằng chứng cho thấy việc sử dụng NSAIDS có thể làm tăng nguy cơ sảy thai trong ba tháng đầu.
Tuy nhiên, NSAIDS an toàn khi sử dụng trong thời kỳ cho con bú vì số lượng thuốc qua được sữa mẹ là rất ít.
Opioids
Các hướng dẫn cho thấy rằng thuốc giảm đau opioid (codein, tramadol, dihydrocodeine (DHC) và morphin) nên được tránh sử dụng ở bất kỳ giai đoạn nào và chỉ được sử dụng dưới sự hướng dẫn và kiểm soát chặt chẽ của chuyên gia y tế.
Xem xét sự khác biệt quan trọng giữa codein và dihydrocodein khi cho con bú và lưu ý rằng tránh dùng codein vì các độc tính nhưng dihydrocodein an toàn hơn khi cho con bú.
Bệnh cúm
Cúm có thể gây ra các hậu quả nghiêm trọng đối với phụ nữ mang thai vì nó làm tăng nguy cơ biến chứng như viêm phế quản, nhiễm trùng hô hấp tiến triển thành viêm phổi.
Cách tốt nhất để tránh mắc cúm là tiêm vắc-xin cúm. Hiện nay, các dữ liệu cho thấy vắc-xin cúm an toàn khi sử dụng cho phụ nữ đang mang thai.
Tài liệu tham khảo
https://www.medscape.com/viewarticle/906502
Probiotics được định nghĩa là “các vi sinh vật sống, khi được đưa vào cơ thể với số lượng đủ, sẽ mang lại lợi ích cho sức khỏe của vật chủ”. Các chủng vi khuẩn tạo axit lactic là quan trọng nhất trong thực phẩm và dinh dưỡng, chủng thuộc chi Lactobacillus và Bifidobacterium là những probiotic được sử dụng phổ biến nhất, ngoài ra còn kể đến các chi Bacillus, Streptococcus, Enterococcus, Saccharomyces và Escherichia coli
- Bệnh viện đã thực hiện 378 báo cáo ADR, giảm 7,9% so với năm 2023 (408 báo cáo), tăng 14,2% so với năm 2022 (331 báo cáo).
- Số lượng báo cáo ADR ngoại trú là 18 báo cáo, giảm 3,6 lần so với năm 2023 (66 báo cáo).
- Bệnh viện Từ Dũ được Trung tâm DI&ADR quốc gia xếp hạng 8/991 cơ sở khám chữa bệnh có hoạt động theo dõi ADR hiệu quả trong báo cáo tổng kết ADR quốc gia vào tháng 9/2024.
Mirvetuximab soravtansine-gynx đã được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) phê duyệt điều trị cho bệnh nhân trưởng thành mắc ung thư biểu mô buồng trứng, ống dẫn trứng, hoặc ung thư phúc mạc nguyên phát dương tính với thụ thể folat alpha (FRα), kháng hóa trị, là những bệnh nhân đã trải qua 3 liệu trình điều trị trước đó. Theo các chuyên gia, bệnh nhân mắc các loại ung thư này thường được phát hiện khi bệnh đã ở giai đoạn muộn, trải qua phẫu thuật và sau đó được điều trị bằng phác đồ hóa trị có platinum nhưng có thể trở nên kháng thuốc.
Kháng sinh (KS) phổ rộng được xem như “thần dược” để điều trị các bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng hoặc đe dọa tính mạng khi tác nhân gây bệnh chưa được xác định. Mục đích sử dụng KS phổ rộng nhằm bao phủ nhiều loại tác nhân vi khuẩn gram dương và gram âm, bao gồm cả các tác nhân kháng thuốc trong khi chờ kết quả nuôi cấy. Tuy nhiên, việc sử dụng bừa bãi các KS phổ rộng cũ và mới đã góp phần đáng kể vào sự gia tăng tình trạng kháng kháng sinh (AMR) – một vấn đề sức khỏe toàn cầu đáng lưu ý.
Những dữ kiện của một nghiên cứu tiền lâm sàng cho thấy: đái tháo đường thai kỳ (ĐTĐTK) có thể làm tăng nguy cơ nhiễm trùng và tử vong ở trẻ sơ sinh nguyên nhân do liên cầu khuẩn nhóm B (GBS). Có nhiều lý do như: thay đổi hệ vi sinh vật âm đạo, giảm đáp ứng miễn dịch và quá trình điều hoà thích nghi của vi khuẩn.
Tiền sản giật là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong mẹ. Bệnh lý tiền sản giật có liên quan đến sự xâm lấn tế bào nuôi nhau thai và sự tái cấu trúc động mạch xoắn tử cung. Với đặc tính kháng viêm, aspirin được giả thuyết rằng có thể cải thiện sự bám nhau giúp ngăn ngừa tiền sản giật. Vì vậy, spirin liều thấp được khuyến cáo sử dụng để dự phòng tiền sản giật trong thai kỳ. Mặt khác, aspirin cũng được chỉ định cho các trường hợp thai giới hạn tăng trưởng, sinh non, thai lưu.