Kết quả nghiên cứu: tiêm vắc-xin cúm không liên quan đến nguy cơ mắc các biến chứng chu sinh bất lợi
Lược dịch
Theo kết quả của một nghiên cứu trên JAMA Network Open, tiêm vắc-xin cúm không liên quan đến việc tăng nguy cơ mắc các kết quả bất lợi trong thời kỳ chu sinh đối với những người mang thai liên tiếp. Các tác giả nghiên cứu cho biết những phát hiện này ủng hộ các khuyến nghị hiện tại cho những người mang thai hoặc những người có thể mang thai trong mùa cúm.

Hiện tại, CDC khuyến cáo nên tiêm vắc-xin phòng ho gà, cúm, virus hợp bào hô hấp và COVID-19. Một số cá nhân cũng có thể được tiêm vắc-xin phòng viêm gan B và viêm gan A theo khuyến cáo của bác sĩ. Bệnh nhân đang mang thai có nhiều khả năng mắc bệnh cúm nghiêm trọng hơn và CDC khuyến cáo nên tiêm vắc-xin cúm vào cuối tháng 10, mặc dù thời điểm của mùa bệnh hô hấp có thể thay đổi.
Theo các tác giả nghiên cứu, tỷ lệ tiêm chủng cho mùa cúm 2022-2023 là 47,2% tại Hoa Kỳ. Trong nghiên cứu, các nhà điều tra đặt mục tiêu đánh giá liệu việc tiêm vắc-xin cúm theo mùa trong các lần mang thai liên tiếp có liên quan đến việc tăng nguy cơ gặp phải các kết quả bất lợi cho lần mang thai thứ hai hay không cũng như ước tính rủi ro liên quan đến vắc-xin theo khoảng cách giữa các lần mang thai và loại vắc-xin.
Nghiên cứu có tính chất hồi cứu, bao gồm những cá nhân có thai đơn liên tiếp từ năm 2004 đến năm 2018 từ 8 trung tâm chăm sóc sức khỏe, bao gồm Kaiser Permanente (KP) Nam California, Denver Health, HealthPartners Institute, KP Colorado, KP Bắc California, NP Northwest, KP Washington và Marshfield Clinical Research Institute. Đối tượng nghiên cứu bao gồm những cá nhân “có ít nhất 2 thai đơn liên tiếp có tuần thai từ 20 đến 42 và 6 ngày”. Đối tượng loại trừ những người đã tiêm vắc-xin cúm từ ngày 1 tháng 5 đến ngày 31 tháng 7 và sinh con ở tuổi thai dưới 20 tuần.
Có 82.055 người có tình trạng tiêm chủng giống nhau trong 2 lần mang thai đơn được đưa vào nghiên cứu. Khoảng 54,69% cá nhân đã tiêm chủng trong các lần mang thai liên tiếp và 45,31% không tiêm chủng trong cả hai lần mang thai. Trong số những người đã được tiêm chủng, 33,77% đã được tiêm chủng trong tam cá nguyệt đầu tiên. Đối với những cá nhân đã được tiêm chủng, các nhà nghiên cứu thấy rằng họ thường từ 30 tuổi trở lên, có xu hướng tốt nghiệp đại học, được chăm sóc trước khi sinh thường xuyên hơn, không hút thuốc hoặc uống rượu trong khi mang thai và đã được tiêm vắc-xin không phải cúm trong lần mang thai thứ hai.
So với những người không được tiêm vắc-xin, những người được tiêm vắc-xin có tỷ lệ tiền sản giật hoặc sản giật cao hơn ở mức 2,95/100 ca so với 3,39/100 ca, vỡ màng ối non ở mức 8,41/100 ca và 9,51/100 ca, và viêm màng ối ở mức 1,69/100 ca và 1,93/100 ca. Trong phân tích thô, việc tiêm vắc-xin có liên quan đến việc tăng nguy cơ tiền sản giật hoặc sản giật và viêm màng ối; tuy nhiên, sau khi điều chỉnh các yếu tố gây nhiễu tiềm ẩn, tiêm vắc-xin không còn là yếu tố nguy cơ độc lập đối với bất kỳ hậu quả nào mà nghiên cứu chỉ ra.
Trong phân tích điều chỉnh, những cá nhân mang thai được tiêm vắc-xin không có nguy cơ bong nhau thai, sốt mẹ, sinh non hoặc sinh con nhỏ so với tuổi thai. Hơn nữa, các nhà nghiên cứu không thấy nguy cơ mắc các kết quả bất lợi khác nhau trong thời kỳ chu sinh giữa hai nhóm nghiên cứu, kể cả về khoảng cách giữa các lần mang thai hoặc loại vắc-xin.
Nguồn:
https://www.pharmacytimes.com/view/study-results-show-flu-vaccination-not-associated-with-risk-of-adverse-perinatal-outcomes
Trong bản dự thảo cuối cùng, Viện Y tế và Chất lượng Điều trị Quốc gia Anh (NICE) cho biết relugolix-estradiol-norethisterone là một lựa chọn để điều trị các triệu chứng lạc nội mạc tử cung ở những người phụ nữ trưởng thành đang trong độ tuổi sinh sản, nhưng không đáp ứng với phương pháp điều trị nội khoa hoặc phẫu thuật trước đó.
Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC), có khoảng 10% bệnh nhân tại Mỹ được báo cáo bị dị ứng penicillin. Tuy nhiên, dưới 1% bị dị ứng qua trung gian IgE (loại 1) và các nhà nghiên cứu lưu ý rằng, khoảng 80% bệnh nhân này sẽ mất độ nhạy cảm sau 10 năm. Hơn nữa, CDC khuyến nghị cần xác định những bệnh nhân không thực sự dị ứng penicillin để giảm việc sử dụng kháng sinh phổ rộng không cần thiết. Phản ứng chéo giữa penicillin và cephalosporinlà rất hiếm, nhưng nhiều bác sĩ tránh kê đơn cephalosporin cho bệnh nhân bị dị ứng penicillin, dẫn đến tăng cường sử dụng các loại kháng sinh khác như là quinolon, macrolid, clindamycin, carbapenem và vancomycin, thường gặp nhiều tác dụng phụ hơn, tăng chi phí chăm sóc sức khỏe và góp phần vào tình trạng đề kháng kháng sinh
Độc tính trên thận do thuốc là nguyên nhân phổ biến gây ra tổn thương thận cấp tính (AKI) và kháng sinh (KS) là một trong những nhóm thuốc lớn nhất liên quan đến AKI. Cơ chế gây độc tính trên thận do KS bao gồm tổn thương cầu thận, tổn thương hoặc rối loạn chức năng ống thận, tắc nghẽn ống lượn xa do trụ niệu và viêm thận kẽ cấp tính (AIN) do phản ứng quá mẫn loại IV (loại chậm). Các biểu hiện lâm sàng của độc tính trên thận do KS bao gồm hoại tử ống thận cấp (ATN), AIN và hội chứng Fanconi.
Trong 6 tháng đầu năm 2025, Bệnh viện Từ Dũ ghi nhận 204 báo cáo ADR, tăng 1,3 lần so với cùng kỳ năm 2024 (160 báo cáo).
Việc sử dụng hệ thống phóng thích Levonorgestrel trong tử cung (LNG-IUS: Levonorgestrel-releasing intrauterine system) có liên quan đến tăng nguy cơ ung thư vú. Một nghiên cứu ở Đan Mạch ghi nhận 14 trường hợp ung thư vú trên 10.000 phụ nữ tránh thai bằng LNG-IUS so với phụ nữ tránh thai không dùng nội tiết.
Staphylococcus aureus, một loại vi khuẩn gram dương, là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong do nhiễm trùng huyết trên toàn thế giới, với tỷ lệ tử vong từ 15% đến 30% và ước tính có 300.000 ca tử vong mỗi năm.