Kháng sinh dự phòng trong mổ lấy thai: Mở rộng phổ kháng khuẩn của kháng sinh có thể hiệu quả hơn?
DS. Nguyễn Thị Thúy Anh (lược dịch)
K. Dược
Mổ lấy thai là phẫu thuật lớn thường gặp nhất được thực hiện. Nguy cơ các biến chứng như nhiễm trùng vết mổ và viêm nội mạc tử cung tăng gấp 5 đến 10 lần so với sinh đường âm đạo.[1] Việc sử dụng cefazolin quanh phẫu thuật được khuyến cáo nhằm làm giảm nguy cơ này, nếu nhiễm trùng xảy ra làm tăng gánh nặng bệnh lý cho người mẹ và tăng chi phí chăm sóc y tế.
Mổ lấy thai không chủ động (chẳng hạn như mổ lấy thai được thực hiện trong khi chuyển dạ, hoặc sau khi màng ối vỡ hoặc để cấp cứu người mẹ hoặc thai nhi) là vấn đề được quan tâm. Nhiễm khuẩn sau phẫu thuật xảy ra với tỷ lệ lên đến 12% các trường hợp mặc dù có biện pháp dự phòng thường quy.[2,3] Các nghiên cứu trước đây cho thấy tỷ lệ viêm nội mạc tử cung sau sinh cao hơn đối với những người nhiễm Ureaplasma urealyticum ở đường sinh dục hoặc bào thai,[4-9] và các nghiên cứu đơn trung tâm chứng tỏ liều duy nhất azithromycin đường tĩnh mạch bổ sung vào kháng sinh dự phòng thường quy có thể giảm nguy cơ nhiễm trùng sau phẫu thuật.[10] Một giả thuyết cho sự kết hợp với azithromycin là mở rộng phổ kháng khuẩn trên các chủng Ureaplasma; tuy nhiên, vai trò của Ureaplasma trong cơ chế bệnh sinh của viêm nội mạc tử cung còn nhiều tranh cãi.
Nhằm mở rộng các kết quả này cũng như đánh giá lợi ích và tính an toàn của azithromycin kết hợp với kháng sinh dự phòng thường quy, Tita và cộng sự [11] đã thực hiện nghiên cứu ở 14 bệnh viện tại Hoa Kỳ với cỡ mẫu là 2013 thai phụ được chỉ định mổ lấy thai khi vào chuyển dạ hoặc sau khi ối vỡ, các thai phụ được chia ngẫu nhiên thành hai nhóm, một nhóm được cho sử dụng liều duy nhất 500 mg azithromycin đường tĩnh mạch (n=1019) kết hợp với kháng sinh dự phòng trước phẫu thuật, một nhóm dùng giả dược (n=994) kết hợp với kháng sinh dự phòng. Nghiên cứu loại trừ các thai phụ mổ chủ động.
Tỷ lệ các biến chứng nguyên phát (viêm nội mạc tử cung, nhiễm khuẩn vết mổ, hoặc các nhiễm khuẩn khác trong vòng 6 tuần sau mổ lấy thai) ở nhóm có dùng azithromycin giảm gần một nửa so với nhóm dùng giả dược (6.1% vs 12.0%, P<.001). Tỷ lệ viêm nội mạc tử cung (3.8% vs 6.1%, P=.02) và tỷ lệ nhiễm khuẩn vết mổ (2.4% vs 6.6%, P<.001) đều thấp hơn ở nhóm có dùng azithromycin, cũng như các lần tái khám, tái nhập viện, sử dụng kháng sinh sau phẫu thuật. Các biến chứng sơ sinh được đánh giá sau 3 tháng tương tự ở hai nhóm.
Cơ chế làm giảm nhiễm trùng liên quan đến azithromycin? Như đã nêu ở phần trên, kháng sinh dự phòng với cefazolin hoặc clindamycin không có tác động đối với Ureaplasma, điều này cho thấy lợi ích của việc phối hợp với azithromycin.[12] Tuy nhiên, kết quả này không được khẳng định do không thể phát hiện được chủng vi khuẩn này.
Hơn nữa, trên 70% các đối tượng nghiên cứu có chỉ số khối cơ thể (BMI) >30 kg/m2, và béo phì là yếu tố nguy cơ của nhiễm khuẩn hậu sản. Mặc dù không được ghi nhận, các bệnh nhân này có thể được cho sử dụng cefazolin dưới liều, azithromycin mở rộng phổ kháng khuẩn đối với những trường hợp này.
Sau cùng, kiểm định Post-hoc chứng tỏ việc sử dụng thêm azithromycin mang lại nhiều lợi ích hơn khi vết mổ được khép kín bằng kẹp ghim so với dùng chỉ khâu (P=.02 for the interaction). Kẹp không được khuyến cáo sử dụng do làm tăng nguy cơ nhiễm khuẩn (kẹp được sử dụng ở 40% tổng số bệnh nhân trong nghiên cứu này), tuy nhiên kết quả nghiên cứu được giải thích nhờ azithromycin đạt được nồng độ tại cơ tử cung và mô mỡ và có thời gian bán hủy dài. Đặc điểm dược lý của azithromycin cho thấy kháng sinh này ít qua nhau thai vào tuần hoàn thai nhi; tuy nhiên, cần có theo dõi lâu dài nhằm đảm bảo không gia tăng nguy cơ các biến chứng sơ sinh.
Mặc dù còn nhiều vấn đề cần bàn luận, các bác sĩ sản khoa sẽ cân nhắc việc bổ sung azithromycin vào hướng dẫn về kháng sinh dự phòng phẫu thuật trong mổ lấy thai không chủ động. Nghiên cứu này ủng hộ việc sử dụng thêm azithromycin ở các cơ sở y tế có tỷ lệ cao nhiễm khuẩn sau phẫu thuật và đối với người bệnh có nguy cơ nhiễm khuẩn cao hơn. Tuy nhiên, cần có đánh giá lâu dài để theo dõi các biến cố không mong muốn của người mẹ và trẻ sơ sinh.
Emily Spivak, MD, MHS
January 11, 2017
https://www.medscape.com/viewarticle/874134
Tài liệu tham khảo
- Gibbs RS. Clinical risk factors for puerperal infection. Obstet Gynecol. 1980;55(5 Suppl):178S-184S.
- Thigpen BD, Hood WA, Chauhan S, et al. Timing of prophylactic antibiotic administration in the uninfected laboring gravida: a randomized clinical trial. Am J Obstet Gynecol. 2005;192:1864-1868. Abstract
- Costantine MM, Rahman M, Ghulmiyah L, et al. Timing of perioperative antibiotics for cesarean delivery: a metaanalysis. Am J Obstet Gynecol. 2008;199:301.e1-6.
- Tita AT, Rouse DJ, Blackwell S, Saade GR, Spong CY, Andrews WW. Emerging concepts in antibiotic prophylaxis for cesarean delivery: a systematic review. Obstet Gynecol. 2009;113:675-682. Abstract
- Rosene K, Eschenbach DA, Tompkins LS, Kenny GE, Watkins H. Polymicrobial early postpartum endometritis with facultative and anaerobic bacteria, genital mycoplasmas, and Chlamydia trachomatis: treatment with piperacillin or cefoxitin. J Infect Dis. 1986;153:1028-1037. Abstract
- Watts DH, Krohn MA, Hillier SL, Eschenbach DA. Bacterial vaginosis as a risk factor for post-cesarean endometritis. Obstet Gynecol. 1990;75:52-58. Abstract
- Roberts S, Maccato M, Faro S, Pinell P. The microbiology of post-cesarean wound morbidity. Obstet Gynecol. 1993;81:383-386. Abstract
- Andrews WW, Shah SR, Goldenberg RL, Cliver SP, Hauth JC, Cassell GH. Association of post-cesarean delivery endometritis with colonization of the chorioamnion by Ureaplasma urealyticum. Obstet Gynecol. 1995;85:509-514. Abstract
- Keski-Nisula L, Kirkinen P, Katila ML, Ollikainen M, Suonio S, Saarikoski S. Amniotic fluid U. urealyticum colonization: significance for maternal peripartal infections at term. Am J Perinatol. 1997;14:151-156. Abstract
- Yoon BH, Romero R, Park JS, et al. Microbial invasion of the amniotic cavity with Ureaplasma urealyticum is associated with a robust host response in fetal, amniotic, and maternal compartments. Am J Obstet Gynecol. 1998;179:1254-1260. Abstract
- Tita AT, Szychowski JM, Boggess K, et al; C/SOAP Trial Consortium. Adjunctive azithromycin prophylaxis for Cesarean delivery. N Engl J Med. 2016;375:1231-1241. Abstract
- Weinstein RA, Boyer KM. Antibiotic prophylaxis for cesarean delivery - when broader is better. N Engl J Med. 2016;375:1284-1286. Abstract
Trong giai đoạn năm 2018-2021, Mạng lưới An toàn Chăm sóc Sức khỏe Quốc gia (NHSN) đã báo cáo rằng 0,4% (n = 1.951) các ca nhiễm trùng mắc phải tại bệnh viện (HAI) ở Hoa Kỳ nguyên nhân do Acinetobacter spp. gây ra. Trong số này có 28-45% không nhạy cảm với kháng sinh carbapenem (tức là trung gian hoặc đề kháng).
Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng (RCT), BLING III cung cấp bằng chứng việc sử dụng truyền liên tục (CI) so với truyền ngắt quãng piperacillin/tazobactam và meropenem trên bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Điều này được củng cố bởi một đánh giá tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp (SRMA) của 18 RCT về CI hoặc truyền kéo dài (EI) (thời gian từ 3–4 giờ) các kháng sinh beta-lactam. Thách thức hiện nay là chuyển đổi CI như một tiêu chuẩn chăm sóc cho bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Các cân nhắc chính bao gồm các vấn đề sau:
Các nhà nghiên cứu thuộc Đại học Alabama tại Birmingham, đã tiến hành phân tích dữ liệu thứ cấp trên đối tượng phụ nữ tăng huyết áp mạn tính trong thai kỳ, so sánh với phương pháp điều trị chính. Tăng huyết áp mạn tính nhẹ trong nghiên cứu được định nghĩa là huyết áp 140-159/90-104 mmHg trước 20 tuần của thai kỳ.
Nhiễm trùng huyết – sepsis - vẫn là một trong những nguyên nhân gây tử vong lớn nhất trên thế giới, Tổ chức Y tế Thế giới ước tính 11 triệu người tử vong mỗi năm do tình trạng này. Các yếu tố chính của việc quản lý sepsis là chẩn đoán sớm, liệu pháp kháng sinh kinh nghiệm sớm và phù hợp, với biện pháp kiểm soát nguồn gây bệnh thích hợp và bảo tồn chức năng các cơ quan.
Sự ra đời của vắc-xin giúp chúng ta chủ động phòng chống các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm. Tổ chức y tế thế giới ước tính chương trình tiêm chủng hiện nay giúp ngăn ngừa 3,5-5 triệu ca tử vong mỗi năm do các bệnh như bạch hầu, uốn ván, ho gà, cúm và sởi [2].
Phòng ngừa suy nhược, mệt mỏi, đau nhức:
Hoạt động mỗi ngày đi bộ ngắn, tập các bài tập nhẹ nhàng. Giữ tinh thần ổn định
Chế độ ăn hợp lý trao đổi thêm với bác sĩ về dinh dưỡng bổ sung (thực phẩm giàu protein như thịt, cá, phô mai, sữa chua...). Uống nhiều nước, trừ khi có hướng dẫn khác.
Chườm khăn lạnh nếu có nhức mỏi, đau cơ.