Kháng sinh mới cho thấy triển vọng trong việc điều trị bệnh lậu không biến chứng
DS. Hoàng Thị Vinh (Lược dịch)
K. Dược
Theo kết quả công bố ngày 7 tháng 11 trên tạp chí New England Journal of Medicine, một loại kháng sinh đường uống được nghiên cứu có tên là zoliflodacin - dung nạp tốt và chữa khỏi thành công hầu hết các trường hợp bệnh lậu không biến chứng khi được kiểm chứng trong một thử nghiệm lâm sàng đa trung tâm giai đoạn 2. Viện Dị ứng và Bệnh truyền nhiễm Quốc gia (NIAID), một bộ phận của Viện Y tế Quốc gia Hoa Kỳ, đã tài trợ cho nghiên cứu lâm sàng này.
Lậu là bệnh lây truyền qua đường tình dục thường gặp ảnh hưởng đến cả nam và nữ, đặc biệt là những người trẻ trong độ tuổi từ 15 đến 24. Lậu là bệnh phổ biến thứ hai trong số các bệnh phải báo cáo ở Hoa Kỳ. Trong năm 2017, hơn 550.000 ca bệnh lậu đã được báo cáo tại Hoa Kỳ. Nếu không được điều trị, nhiễm lậu có thể dẫn đến bệnh viêm vùng chậu, thai ngoài tử cung, vô sinh và tăng nguy cơ nhiễm HIV. Phụ nữ mang thai có thể truyền bệnh cho con, những đứa trẻ này có thể bị mù hoặc nhiễm trùng tiến triển đe dọa đến tính mạng.
Bệnh lậu do vi khuẩn Neisseria gonorrhoeae gây ra, đã dần dần đề kháng với từng loại kháng sinh được sử dụng để điều trị bệnh này. Kết quả là, vào năm 2015, Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ đã xem xét lại các hướng dẫn điều trị bệnh lậu để đề xuất liệu pháp kép với ceftriaxone đường tiêm và azithromycin đường uống nhằm làm giảm sự xuất hiện đề kháng với ceftriaxone.
Zoliflodacin (trước đây gọi là ETX0914 và AZD0914), được phát triển bởi Entasis Therapeutics có trụ sở tại Waltham, Mass., đại diện cho một kiểu kháng sinh uống mới ức chế tổng hợp DNA theo một cách khác với các kháng sinh hiện đang được công nhận.
Tiến sĩ y khoa Anthony S. Fauci - giám đốc NIAID - cho biết "Tỷ lệ các ca bệnh lậu được báo cáo ở Hoa Kỳ đã tăng 75% kể từ mức thấp lịch sử năm 2009, và sự đề kháng kháng sinh đã làm giảm đáng kể số lựa chọn để điều trị căn bệnh này. Kết quả nghiên cứu được công bố ngày hôm nay cho thấy zoliflodacin có tiềm năng trở thành một kháng sinh uống hữu ích và dễ sử dụng để điều trị bệnh lậu”.
Nghiên cứu này diễn ra từ tháng 11 năm 2014 đến tháng 12 năm 2015 và được dẫn dắt bởi Tiến sĩ Stephanie N. Taylor, thuộc Trung tâm Khoa học Sức khỏe Đại học bang Louisiana ở New Orleans. Thử nghiệm bao gồm 179 người tham gia (167 nam và 12 phụ nữ không mang thai) tuổi từ 18 đến 55 với các triệu chứng của bệnh lậu sinh dục không biến chứng, lậu sinh dục không được điều trị hoặc tiếp xúc tình dục với người bị lậu trong vòng 14 ngày trước khi tham gia nghiên cứu. Những người tham gia được lựa chọn ngẫu nhiên để nhận liều duy nhất 2 hoặc 3 gram zoliflodacin uống hoặc 500 mg ceftriaxone tiêm. Trong số 117 người tuân thủ điều trị được đánh giá sáu ngày sau khi điều trị, 98% (48/49) những người nhận liều zoliflodacin 2 gram, 100% (47/47) những người nhận được liều 3 gram, và tất cả (21/21) những người tham gia trong nhóm ceftriaxone được coi là chữa khỏi bệnh lậu sinh dục dựa trên kết quả nuôi cấy.
Zoliflodacin chữa khỏi tất cả các trường hợp nhiễm lậu trực tràng (4/4 người tham gia nhận liều 2 gram và 6/6 người tham gia nhận liều 3 gram) cũng như ceftriaxone (3/3 người tham gia). Tuy nhiên, thuốc được nghiên cứu không có hiệu quả tốt trong điều trị bệnh nhân nhiễm lậu họng: 67% người tình nguyện nhận liều 2 gram (4 trong số 6 người tham gia) và 78% người được điều trị liều 3 gram (7 trong số 9 người tham gia) đã được chữa khỏi. Tất cả những người tham gia (4/4) trong nhóm ceftriaxone đều được chữa khỏi.
Kháng sinh được nghiên cứu dung nạp tốt với tác dụng phụ thường gặp nhất là rối loạn tiêu hóa thoáng qua. Đánh giá vi sinh của các chủng phân lập sau điều trị không cho thấy sự đề kháng với zoliflodacin.
Vào tháng 3 năm 2018, NIAID đã hoàn thành một nghiên cứu đánh giá dược động học, tính an toàn và khả năng dung nạp của zoliflodacin ở một liều uống duy nhất như một cầu nối từ thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 2 đến thử nghiệm giai đoạn 3. Kết quả từ nghiên cứu này vẫn chưa được công bố. Ngoài ra, vào tháng 9 năm 2018, NIAID đã bắt đầu thử nghiệm Giai đoạn 1 để đánh giá ảnh hưởng trên tim của thuốc được nghiên cứu, đây là một thử nghiệm tiêu chuẩn về tính an toàn đối với các thuốc mới như thế này.
Zoliflodacin đã được Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ xếp vào trạng thái “Fast tract” để phát triển thuốc điều trị lậu cầu bằng đường uống. Dự kiến thuốc sẽ được bắt đầu thử nghiệm giai đoạn 3 ở Hà Lan, Nam Phi, Thái Lan và Hoa Kỳ vào năm tới.
*“Fast tract” là một tiến trình được thiết kế nhằm tạo điều kiện cho sự phát triển và đẩy nhanh quá trình xem xét các loại thuốc để điều trị các bệnh nghiêm trọng và giải quyết những nhu cầu y tế chưa được đáp ứng. Mục đích là để có được những loại thuốc mới quan trọng cho bệnh nhân sớm hơn.
Tài liệu tham khảo:
1. https://www.niaid.nih.gov/news-events/novel-antibiotic-shows-promise-treatment-uncomplicated-gonorrhea
2. https://www.fda.gov/ForPatients/Approvals/Fast/ucm405399.htm
Trẻ em không phải người lớn thu nhỏ. Các yếu tố dược động học ở trẻ sơ sinh thay đổi liên tục do sự phát triển nhanh về sinh lý. Tiêm tĩnh mạch thường được sử dụng trong điều trị cho trẻ sơ sinh, đặc biệt khi trẻ đang điều trị tại đơn vị chăm sóc tích cực. Khi tiêm tĩnh mạch, hiệu quả gần như tức thời. Hầu hết các loại thuốc tiêm tĩnh mạch cho trẻ sơ sinh có những yêu cầu riêng về độ pha loãng và/hoặc tốc độ truyền.
Trong giai đoạn năm 2018-2021, Mạng lưới An toàn Chăm sóc Sức khỏe Quốc gia (NHSN) đã báo cáo rằng 0,4% (n = 1.951) các ca nhiễm trùng mắc phải tại bệnh viện (HAI) ở Hoa Kỳ nguyên nhân do Acinetobacter spp. gây ra. Trong số này có 28-45% không nhạy cảm với kháng sinh carbapenem (tức là trung gian hoặc đề kháng).
Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng (RCT), BLING III cung cấp bằng chứng việc sử dụng truyền liên tục (CI) so với truyền ngắt quãng piperacillin/tazobactam và meropenem trên bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Điều này được củng cố bởi một đánh giá tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp (SRMA) của 18 RCT về CI hoặc truyền kéo dài (EI) (thời gian từ 3–4 giờ) các kháng sinh beta-lactam. Thách thức hiện nay là chuyển đổi CI như một tiêu chuẩn chăm sóc cho bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Các cân nhắc chính bao gồm các vấn đề sau:
Các nhà nghiên cứu thuộc Đại học Alabama tại Birmingham, đã tiến hành phân tích dữ liệu thứ cấp trên đối tượng phụ nữ tăng huyết áp mạn tính trong thai kỳ, so sánh với phương pháp điều trị chính. Tăng huyết áp mạn tính nhẹ trong nghiên cứu được định nghĩa là huyết áp 140-159/90-104 mmHg trước 20 tuần của thai kỳ.
Nhiễm trùng huyết – sepsis - vẫn là một trong những nguyên nhân gây tử vong lớn nhất trên thế giới, Tổ chức Y tế Thế giới ước tính 11 triệu người tử vong mỗi năm do tình trạng này. Các yếu tố chính của việc quản lý sepsis là chẩn đoán sớm, liệu pháp kháng sinh kinh nghiệm sớm và phù hợp, với biện pháp kiểm soát nguồn gây bệnh thích hợp và bảo tồn chức năng các cơ quan.
Sự ra đời của vắc-xin giúp chúng ta chủ động phòng chống các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm. Tổ chức y tế thế giới ước tính chương trình tiêm chủng hiện nay giúp ngăn ngừa 3,5-5 triệu ca tử vong mỗi năm do các bệnh như bạch hầu, uốn ván, ho gà, cúm và sởi [2].