Kháng sinh: Thận trọng trong quản lý
Ds. Nguyễn Tấn Xuân Trang (Dịch)
Khoa Dược – Bv Từ Dũ
Mỗi năm phút, có 1 trẻ chết do vi khuẩn kháng thuốc tại Đông Nam Á. Những thuốc có hiệu quả trong việc điều trị những căn bệnh chết người như lao, HIV, sốt rét,… đang ngày càng giảm dần tác dụng của chúng. Sử dụng sai và sử dụng lạm dụng kháng sinh sẽ dẫn đến đề kháng – một mối đe dọa sức khỏe cộng đồng lớn nhất.
Kháng sinh thường không được chỉ định một cách tối ưu – như là khi không cần thiết, hoặc là với sự lựa chọn không chính xác loại kháng sinh hoặc liều sử dụng. Tự mua thuốc mà không cần toa bác sĩ là một việc phổ biến. Sử dụng kháng sinh thất bại hoặc sử dụng kéo dài, thiếu quy định hay tiêu chuẩn cho nhân viên y tế và việc sử dụng sai và lạm dụng kháng sinh trong chăn nuôi và nông nghiệp là những yếu tố làm tăng thêm sự đề kháng kháng sinh.
WHO đang vận động mạnh mẽ cho những hành động khẩn cấp để đẩy lùi tình trạng đề kháng kháng sinh ngày càng gia tăng và đang đe dọa có thể vượt khả năng của kháng sinh để chữa những bệnh nhiễm trùng nặng. Điều này có thể là một thảm họa. Chúng ta đang hướng đến một kỷ nguyên khi 1 vết cắt nhỏ cũng có thể đe dọa tính mạng. Những nhiễm trùng thông thường có thể được điều trị trong nhiều thập kỷ qua một lần nữa có thể gây chết người.
Các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á WHO đã ký kết tuyên bố tại Jaipur vào năm 2011 về ưu tiên hành động phòng chống đề kháng kháng sinh.
Tuần lễ Thế giới nhận thức về kháng sinh với mục tiêu nhằm nâng cao nhận thức và thúc đẩy thực hành tốt trong cộng đồng, trong nhân viên y tế và các chính sách đảm bảo sử dụng kháng sinh đúng cách để hạn chế sự xuất hiện thêm và lây lan tình trạng đề kháng kháng sinh.
Kháng sinh vẫn là một nguồn quý giá. Chúng đã cứu hàng triệu sinh mạng bằng cách điều trị các nhiễm khuẩn nặng. Hãy cùng chúng tôi ngăn chặn sự đề kháng kháng sinh.
Nguồn:
Antibiotics: Handle with care (MIMs doctor 12/2015)
Sốt là triệu chứng phổ biến trong thực hành lâm sàng hàng ngày và một số lượng lớn người bệnh nhập viện do sốt. Nhiều người bệnh được dùng thuốc kháng sinh, thuốc kháng vi-rút, thuốc kháng nấm hoặc thuốc kháng ký sinh trùng, nếu coi nhiễm trùng là nguyên nhân chính. Tuy nhiên, thuốc được dùng để điều trị có thể là nguyên nhân tiềm ẩn gây sốt trong bối cảnh như vậy
Năm 2024, Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) đã ban hành hướng dẫn về việc sử dụng doxycyclin dự phòng sau phơi nhiễm (doxy-PEP) để phòng ngừa bệnh nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục (STI). Dự phòng sau phơi nhiễm là một chiến lược hoá trị dự phòng, trong đó thuốc được dùng sau khi có khả năng phơi nhiễm để ngăn ngừa nhiễm trùng. Đây là một chiến lược phòng ngừa phổ biến và hiệu quả đối với HIV và các bệnh nhiễm trùng khác, chẳng hạn như bệnh dại và uốn ván. Doxycyclin là một kháng sinh nhóm tetracyclin phổ rộng dung nạp tốt và được khuyến cáo điều trị bệnh chlamydia và là phương pháp thay thế trong điều trị giang mai ở những bệnh nhân không có thai.
Việc bẻ, nghiền viên nén không bao, bao phim, bao đường hoặc mở viên nang giải phóng dược chất tức thì không làm thay đổi sinh khả dụng của thuốc và giúp bệnh nhân tuân thủ điều trị tốt hơn
Trẻ em không phải người lớn thu nhỏ. Các yếu tố dược động học ở trẻ sơ sinh thay đổi liên tục do sự phát triển nhanh về sinh lý. Tiêm tĩnh mạch thường được sử dụng trong điều trị cho trẻ sơ sinh, đặc biệt khi trẻ đang điều trị tại đơn vị chăm sóc tích cực. Khi tiêm tĩnh mạch, hiệu quả gần như tức thời. Hầu hết các loại thuốc tiêm tĩnh mạch cho trẻ sơ sinh có những yêu cầu riêng về độ pha loãng và/hoặc tốc độ truyền.
Trong giai đoạn năm 2018-2021, Mạng lưới An toàn Chăm sóc Sức khỏe Quốc gia (NHSN) đã báo cáo rằng 0,4% (n = 1.951) các ca nhiễm trùng mắc phải tại bệnh viện (HAI) ở Hoa Kỳ nguyên nhân do Acinetobacter spp. gây ra. Trong số này có 28-45% không nhạy cảm với kháng sinh carbapenem (tức là trung gian hoặc đề kháng).
Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng (RCT), BLING III cung cấp bằng chứng việc sử dụng truyền liên tục (CI) so với truyền ngắt quãng piperacillin/tazobactam và meropenem trên bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Điều này được củng cố bởi một đánh giá tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp (SRMA) của 18 RCT về CI hoặc truyền kéo dài (EI) (thời gian từ 3–4 giờ) các kháng sinh beta-lactam. Thách thức hiện nay là chuyển đổi CI như một tiêu chuẩn chăm sóc cho bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Các cân nhắc chính bao gồm các vấn đề sau: