Khuyến cáo của FIGO năm 2022 trong phòng ngừa và điều trị băng huyết sau sinh
DS. Hoàng Tôn Hà Vy (Lược dịch)
Khoa Dược
Khuyến cáo của FIGO năm 2022 trong phòng ngừa băng huyết sau sinh (BHSS)
- Việc sử dụng thuốc co hồi tử cung trong phòng ngừa BHSS trong giai đoạn 3 của chuyển dạ được khuyến cáo cho mọi trường hợp sinh. Oxytocin (10 IU IV/IM) được khuyến cáo để phòng ngừa BHSS cho trường hợp sinh ngả âm đạo và trường hợp mổ lấy thai. Khi sử dụng oxytocin, cần lưu ý đến việc bảo quản lạnh oxytocin.
- Trong trường hợp không có oxytocin hoặc chất lượng thuốc không được đảm bảo, khuyến cáo sử dụng các thuốc co hồi tử cung dạng tiêm khác (ví dụ ergometrine/ methylergometrine 200 μg IM, cần loại trừ tiền căn cao huyết áp trước khi sử dụng) hoặc misoprostol dạng uống (400-600 μg đường uống) hoặc carbetocin 100 μg IM/IV.
- Sử dụng kết hợp ergometrine và oxytocin hoặc misoprotol và oxytocin có thể hiệu quả hơn chỉ sử dụng oxytocin trong phòng ngừa BHSS ≥ 500ml. Sự kết hợp làm tăng nguy cơ xảy ra tác dụng phụ (nôn ói và cao huyết áp do ergometrine và sốt do misoprotol).
- Trong trường hợp không có mặt người đỡ đẻ có kinh nghiệm để thực hiện thuốc tiêm và không có oxytocin, khuyến cáo sử dụng misoprostol (400-600 μg đường uống).
- Trong trường hợp không có mặt người đỡ đẻ có kinh nghiệm, không khuyến cáo kéo dây rốn có kiểm soát (CCT).
- Không khuyến cáo kéo dài việc xoa đáy tử cung để phòng ngừa BHSS ở phụ nữ đã phòng ngừa bằng oxytocin.
- Khuyến cáo đánh giá trương lực tử cung để phát hiện sớm đờ tử cung đối với tất cả các trường hợp.
- Oxytocin (IV/IM) và kéo dây rốn có kiểm soát (CCT) được khuyến cáo để bóc nhau nhằm phòng ngừa BHSS sau khi mổ lấy thai.
Khuyến cáo của FIGO năm 2022 trong điều trị BHSS
- Oxytocin truyền TM đơn trị là thuốc co hồi tử cung lựa chọn đầu tay trong điều trị BHSS.
- Nếu không có Oxytocin truyền TM, hoặc nếu tình trạng chảy máu không đáp ứng với oxytocin, khuyến cáo sử dụng ergometrine tiêm bắp hoặc thuốc prostaglandin (bao gồm misoprostol 800 μg ngậm dưới lưỡi)
- Chưa có bằng chứng về tính an toàn và hiệu quả của liều bổ sung misoprostol 800μg trong điều trị BHSS trong trường hợp bệnh nhân đã dùng dự phòng misoprostol 600μg đường uống.
- Dịch tinh thể đẳng trương được khuyến khích hơn dịch keo khi bắt đầu hồi sức truyền dịch tĩnh mạch bệnh nhân BHSS.
- Tiêm tĩnh mạch sớm tranexamic acid trong vòng 3 giờ sau sinh ở sản phụ được chẩn đoán băng huyết sau sinh ngả âm đạo hoặc mổ lấy thai.
- Tiêm tĩnh mạch chậm 1g tranexamic acid (nồng độ 100 mg/ml) với tốc độ 1 ml/phút, lặp lại liều thứ hai nếu 30 phút sau sản phụ còn tiếp tục băng huyết hoặc nếu băng huyết lặp lại trong vòng 24 giờ sau liều đầu tiên.
- Xoa đáy tử cung được khuyến cáo trong điều trị băng huyết sau sinh.
- Ép tử cung bằng hai tay hoặc chèn động mạch chủ từ bên ngoài được khuyến cáo như là một biện pháp tạm thời đến khi có xử lý thích hợp để điều trị băng huyết sau sinh ngả âm đạo do đờ tử cung.
- Nếu bệnh nhân không đáp ứng với các thuốc co hồi tử cung hoặc thuốc co hồi tử cung không có sẵn, khuyến cáo thực hiện đặt bóng chèn lòng TC sau khi đã loại trừ nguyên nhân do sót thai sót nhau hoặc vỡ tử cung.
- Sử dụng trang phục chống choáng không cần bơm hơi được khuyến cáo như là một biện pháp tạm thời đến khi có xử lý thích hợp
- Không khuyến cáo chèn gạc tử cung trong điều trị băng huyết sau sinh ngả âm đạo do đờ tử cung.
- Thắt động mạch tử cung có thể là một biện pháp bảo tồn khi bị BHSS nếu điều kiện thiết bị và kỹ thuật của nhân viên y tế đáp ứng yêu cầu cần thiết.
- Nếu tình trạng xuất huyết không ngừng lại sau khi đã sử dụng các thuốc co hồi tử cung và các biện pháp can thiệp bảo tồn khác (xoa đáy tử cung, đặt bóng chèn), khuyến cáo thực hiện các can thiệp ngoại khoa. Các can thiệp ngoại khoa bao gồm phẫu thuật may mũi B-Lynch, thắt động mạch hạ vị và động mạch tử cung, và cắt tử cung.
- Ưu tiên làm ngưng xuất huyết trước khi bệnh nhân có rối loạn đông máu và tổn thương cơ quan do giảm tưới máu. Các biện pháp bảo tồn nên được thực hiện trước, nếu không có hiệu quả thì nhanh chóng chuyển sang các quy trình xâm lấn.
Tài liệu tham khảo:
Maria Fernanda Escobar, Anwar H Nassar, Gerhard Theron, Eythan R Barnea, Wanda Nicholson, Diana Ramasauskaite, Isabel Lloyd, Edwin Chandraharan, Suellen Miller, Thomas Burke, Gabriel Ossanan, Javier Andres Carvajal, Isabella Ramos, Maria Antonia Hincapie, Sara Loaiza, Daniela Nasner, FIGO Safe Motherhood and Newborn Health Committee. FIGO recommendations on the management of postpartum hemorrhage 2022. Int J Gynecol Obstet. 2022;157(Suppl. 1):3–50.
Trong bản dự thảo cuối cùng, Viện Y tế và Chất lượng Điều trị Quốc gia Anh (NICE) cho biết relugolix-estradiol-norethisterone là một lựa chọn để điều trị các triệu chứng lạc nội mạc tử cung ở những người phụ nữ trưởng thành đang trong độ tuổi sinh sản, nhưng không đáp ứng với phương pháp điều trị nội khoa hoặc phẫu thuật trước đó.
Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC), có khoảng 10% bệnh nhân tại Mỹ được báo cáo bị dị ứng penicillin. Tuy nhiên, dưới 1% bị dị ứng qua trung gian IgE (loại 1) và các nhà nghiên cứu lưu ý rằng, khoảng 80% bệnh nhân này sẽ mất độ nhạy cảm sau 10 năm. Hơn nữa, CDC khuyến nghị cần xác định những bệnh nhân không thực sự dị ứng penicillin để giảm việc sử dụng kháng sinh phổ rộng không cần thiết. Phản ứng chéo giữa penicillin và cephalosporinlà rất hiếm, nhưng nhiều bác sĩ tránh kê đơn cephalosporin cho bệnh nhân bị dị ứng penicillin, dẫn đến tăng cường sử dụng các loại kháng sinh khác như là quinolon, macrolid, clindamycin, carbapenem và vancomycin, thường gặp nhiều tác dụng phụ hơn, tăng chi phí chăm sóc sức khỏe và góp phần vào tình trạng đề kháng kháng sinh
Độc tính trên thận do thuốc là nguyên nhân phổ biến gây ra tổn thương thận cấp tính (AKI) và kháng sinh (KS) là một trong những nhóm thuốc lớn nhất liên quan đến AKI. Cơ chế gây độc tính trên thận do KS bao gồm tổn thương cầu thận, tổn thương hoặc rối loạn chức năng ống thận, tắc nghẽn ống lượn xa do trụ niệu và viêm thận kẽ cấp tính (AIN) do phản ứng quá mẫn loại IV (loại chậm). Các biểu hiện lâm sàng của độc tính trên thận do KS bao gồm hoại tử ống thận cấp (ATN), AIN và hội chứng Fanconi.
Trong 6 tháng đầu năm 2025, Bệnh viện Từ Dũ ghi nhận 204 báo cáo ADR, tăng 1,3 lần so với cùng kỳ năm 2024 (160 báo cáo).
Việc sử dụng hệ thống phóng thích Levonorgestrel trong tử cung (LNG-IUS: Levonorgestrel-releasing intrauterine system) có liên quan đến tăng nguy cơ ung thư vú. Một nghiên cứu ở Đan Mạch ghi nhận 14 trường hợp ung thư vú trên 10.000 phụ nữ tránh thai bằng LNG-IUS so với phụ nữ tránh thai không dùng nội tiết.
Theo kết quả của một nghiên cứu trên JAMA Network Open, tiêm vắc-xin cúm không liên quan đến việc tăng nguy cơ mắc các kết quả bất lợi trong thời kỳ chu sinh đối với những người mang thai liên tiếp. Các tác giả nghiên cứu cho biết những phát hiện này ủng hộ các khuyến nghị hiện tại cho những người mang thai hoặc những người có thể mang thai trong mùa cúm.