Khuyến nghị đồng thuận quốc tế về việc sử dụng kháng sinh β-lactam truyền kéo dài
DS. Nguyễn Hương Thảo
K. Dược
Kháng sinh β-lactam đường tĩnh mạch vẫn là nền tảng trong việc kiểm soát nhiễm khuẩn do có phổ kháng khuẩn rộng và khả năng dung nạp tốt. Kháng sinh β-lactam có hoạt tính diệt khuẩn phụ thuộc vào thời gian, trong đó việc giảm tải lượng vi khuẩn có liên quan trực tiếp đến thời gian mà nồng độ thuốc tự do duy trì trên nồng độ ức chế tối thiểu (MIC) của vi khuẩn trong khoảng đưa liều. Trong nỗ lực tận dụng các đặc tính diệt khuẩn này, truyền kéo dài (kéo dài và liên tục) (PIs) có thể được áp dụng khi sử dụng β-lactam để tăng thời gian trên MIC. Chế độ liều truyền kéo dài đã được triển khai trên khắp thế giới, nhưng việc triển khai không nhất quán, vì vậy cần có các khuyến cáo điều trị đồng thuận cho việc sử dụng β-lactam truyền kéo dài. Hướng dẫn đồng thuận này đưa ra các khuyến cáo liên quan đến mục tiêu dược động học và dược lực học, cân nhắc theo dõi nồng độ thuốc trong trị liệu (TDM) và việc sử dụng liệu pháp β-lactam truyền kéo dài ở các nhóm bệnh nhân: người lớn nặng và không nặng, trẻ em và bệnh nhân béo phì. Những khuyến cáo này cung cấp hướng dẫn đồng thuận đầu tiên về việc sử dụng β-lactam truyền kéo dài, đã được xem xét và xác nhận bởi Hội Dược Lâm sàng Hoa Kỳ (ACCP), Hội Hóa trị liệu chống nhiễm khuẩn Anh quốc (BSAC), Tổ chức Xơ nang (CFF), Hội Vi sinh lâm sàng và Bệnh truyền nhiễm Châu Âu (ESCMID), Hội Bệnh truyền nhiễm Hoa Kỳ (IDSA), Hội Hồi sức tích cực Hoa Kỳ (SCCM) và Hội Dược sĩ Bệnh truyền nhiễm (SIDP).
1. Mục tiêu tiền lâm sàng để giảm đơn vị hình thành khuẩn lạc (CFU) là 40–70% fT>MIC đối với truyền ngắn (SI) và truyền kéo dài lên đến 4 giờ (EI), 100% fT>MIC với nồng độ thuốc tự do ở trạng thái ổn định (fCss) vượt trên 4 – 8 lần MIC đối với truyền liên tục (CI). Không có mục tiêu tuyệt đối nào đảm bảo ngăn chặn sự đề kháng, nhưng việc nồng độ thuốc tự do vượt trên MIC từ 4 – 6 lần có thể giảm thiểu đề kháng.
2. Dữ liệu in vitro và trên động vật, chủ yếu là vi khuẩn gram âm, đã chứng minh khả năng diệt khuẩn tương đương hoặc tốt hơn của truyền kéo dài so với truyền ngắn; điều này có thể do fT>MIC của truyền kéo dài lớn hơn so với truyền ngắn.
3. Kháng sinh β-lactam được truyền kéo dài có thể làm giảm khả năng đề kháng, những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự xuất hiện đề kháng bao gồm: loại β-lactam, vi khuẩn gây bệnh, MIC và dung dịch vi khuẩn ban đầu.
4. Đề nghị TDM β-lactam và cá thể hóa liều dùng có thể được xem xét trên từng bệnh nhân, từng chỉ định và từng kháng sinh cho đến khi có thêm bằng chứng. Không khuyến cáo ủng hộ hay phản đối TDM thường quy đối với truyền kéo dài β-lactam vào thời điểm này.
5. Không có đủ bằng chứng để khuyến cáo một nồng độ hoặc mức tiếp xúc mục tiêu khi thực hiện TDM β-lactam; tuy nhiên có bằng chứng về mức độ tiếp xúc tối thiểu. Khi thực hiện TDM mục tiêu tiếp xúc trong huyết tương nên đạt ít nhất 50–70% fT>MIC đối với β-lactam khi truyền ngắn và truyền kéo dài. Đối với truyền liên tục, đề xuất 100% fT>MIC với nồng độ ít nhất gấp 4 lần MIC.
6. Có sự lo ngại về độ ổn định của β-lactam khi truyền kéo dài. Vì vậy, cần xem xét độ ổn định của từng thuốc khi áp dụng truyền kéo dài.
7. Đề xuất truyền kéo dài β-lactam thay vì truyền ngắn để giảm tỷ lệ tử vong hoặc tăng chữa khỏi về mặt lâm sàng ở những bệnh nhân nặng, đặc biệt những người nhiễm vi khuẩn gram âm.
8. Không khuyến cáo hay phản đối việc truyền kéo dài β-lactam thay vì truyền ngắn để giảm tỷ lệ tử vong và tăng chữa khỏi về mặt lâm sàng ở những bệnh nhân không nặng.
9. Không khuyến cáo hay phản đối việc truyền kéo dài thay vì truyền ngắn để mang lại lợi ích về an toàn và giảm tác dụng phụ của β-lactam.
10. Đề xuất sử dụng liều nạp khi bắt đầu truyền liên tục β-lactam để cải thiện hiệu quả điều trị và không ủng hộ hay phản đối liều nạp với truyền kéo dài.
11. Không khuyến cáo hay phản đối việc truyền kéo dài thường quy cho bất kỳ trường hợp lâm sàng hoặc đối tượng bệnh nhân (bệnh nặng, béo phì, trẻ sơ sinh) cụ thể nào để cải thiện hiệu quả điều trị của β-lactam ở trẻ em.
12. Không khuyến cáo hay phản đối việc truyền kéo dài thường quy để cải thiện hiệu quả điều trị của β-lactam ở bệnh nhân béo phì.
Tài liệu tham khảo:
Hong, Lisa T et al. “International consensus recommendations for the use of prolonged-infusion beta-lactam antibiotics: Endorsed by the American College of Clinical Pharmacy, British Society for Antimicrobial Chemotherapy, Cystic Fibrosis Foundation, European Society of Clinical Microbiology and Infectious Diseases, Infectious Diseases Society of America, Society of Critical Care Medicine, and Society of Infectious Diseases Pharmacists.” Pharmacotherapy vol. 43,8 (2023): 740-777.
- Bệnh viện đã thực hiện 378 báo cáo ADR, giảm 7,9% so với năm 2023 (408 báo cáo), tăng 14,2% so với năm 2022 (331 báo cáo).
- Số lượng báo cáo ADR ngoại trú là 18 báo cáo, giảm 3,6 lần so với năm 2023 (66 báo cáo).
- Bệnh viện Từ Dũ được Trung tâm DI&ADR quốc gia xếp hạng 8/991 cơ sở khám chữa bệnh có hoạt động theo dõi ADR hiệu quả trong báo cáo tổng kết ADR quốc gia vào tháng 9/2024.
Mirvetuximab soravtansine-gynx đã được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) phê duyệt điều trị cho bệnh nhân trưởng thành mắc ung thư biểu mô buồng trứng, ống dẫn trứng, hoặc ung thư phúc mạc nguyên phát dương tính với thụ thể folat alpha (FRα), kháng hóa trị, là những bệnh nhân đã trải qua 3 liệu trình điều trị trước đó. Theo các chuyên gia, bệnh nhân mắc các loại ung thư này thường được phát hiện khi bệnh đã ở giai đoạn muộn, trải qua phẫu thuật và sau đó được điều trị bằng phác đồ hóa trị có platinum nhưng có thể trở nên kháng thuốc.
Kháng sinh (KS) phổ rộng được xem như “thần dược” để điều trị các bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng hoặc đe dọa tính mạng khi tác nhân gây bệnh chưa được xác định. Mục đích sử dụng KS phổ rộng nhằm bao phủ nhiều loại tác nhân vi khuẩn gram dương và gram âm, bao gồm cả các tác nhân kháng thuốc trong khi chờ kết quả nuôi cấy. Tuy nhiên, việc sử dụng bừa bãi các KS phổ rộng cũ và mới đã góp phần đáng kể vào sự gia tăng tình trạng kháng kháng sinh (AMR) – một vấn đề sức khỏe toàn cầu đáng lưu ý.
Những dữ kiện của một nghiên cứu tiền lâm sàng cho thấy: đái tháo đường thai kỳ (ĐTĐTK) có thể làm tăng nguy cơ nhiễm trùng và tử vong ở trẻ sơ sinh nguyên nhân do liên cầu khuẩn nhóm B (GBS). Có nhiều lý do như: thay đổi hệ vi sinh vật âm đạo, giảm đáp ứng miễn dịch và quá trình điều hoà thích nghi của vi khuẩn.
Tiền sản giật là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong mẹ. Bệnh lý tiền sản giật có liên quan đến sự xâm lấn tế bào nuôi nhau thai và sự tái cấu trúc động mạch xoắn tử cung. Với đặc tính kháng viêm, aspirin được giả thuyết rằng có thể cải thiện sự bám nhau giúp ngăn ngừa tiền sản giật. Vì vậy, spirin liều thấp được khuyến cáo sử dụng để dự phòng tiền sản giật trong thai kỳ. Mặt khác, aspirin cũng được chỉ định cho các trường hợp thai giới hạn tăng trưởng, sinh non, thai lưu.
Sốt là triệu chứng phổ biến trong thực hành lâm sàng hàng ngày và một số lượng lớn người bệnh nhập viện do sốt. Nhiều người bệnh được dùng thuốc kháng sinh, thuốc kháng vi-rút, thuốc kháng nấm hoặc thuốc kháng ký sinh trùng, nếu coi nhiễm trùng là nguyên nhân chính. Tuy nhiên, thuốc được dùng để điều trị có thể là nguyên nhân tiềm ẩn gây sốt trong bối cảnh như vậy