Liều lặp lại betamethasone trước sanh – không ảnh hưởng đến sự tăng trưởng hoặc sự phát triển thần kinh?
Tóm tắt
Theo một thử nghiệm ngẫu nhiên, việc sử dụng một liều đơn lặp lại betamethasone trước sanh ở các thai phụ có nguy cơ sinh non không ảnh hưởng đến sự tăng trưởng hay phát triển thần kinh ở các trẻ được theo dõi đến lúc 2 tuổi.
Một nghiên cứu tiền cứu so sánh với giả dược trước đây đánh giá việc sử dụng một liều lặp lại betamethasone (12mg) ở thai phụ dọa sanh non trước 34 tuần và chưa chuyển dạ sinh sau 7 ngày kể từ khi tiêm một liều đơn betamethasone. Kết quả nghiên cứu cho thấy liệu pháp này không làm giảm sự phát triển bào thai cũng như không cải thiện biến chứng ở trẻ sanh non so với nhóm dùng giả dược trong quá trình nhập viện đầu tiên.
Các tác giả kết luận rằng “một liều đơn lặp lại betamethasone trước sanh không tác động lên sự tăng trưởng hay phát triển thầ kinh ở trẻ 2 tuổi. Một hoặc hai liều lặp lại betamethasone trước sanh có thể ích lợi trong việc làm giảm bệnh phổi cấp tính, nếu có thể trì hoãn được sanh non ít nhất 24 giờ sau liệu pháp corticosteroid. Cần có thêm những nghiên cứu theo dõi trước khi đưa ra một khuyến cáo.”
Reference:
Archives of Disease in Childhood - Fetal and Neonatal Edition 2009; 94:F402-F406
Source: Arch Dis Childhood - Fetal and Neonatal Edition
Date published: 25/01/2010
DS. Nguyễn Thị Thúy Anh (Dịch)
Khoa Dược - BV Từ Dũ
Acetaminophen (paracetamol) đã được sử dụng để hạ sốt và giảm đau từ nhẹ đến trung bình. Thuốc có sẵn ở dạng đơn chất hoặc kết hợp với các thuốc khác để điều trị các triệu chứng cảm lạnh, cúm, đau đầu và viêm xương khớp. Tên thương mại phổ biến là Tylenol. Theo Tạp chí Wall Street Journal đưa tin, Bộ trưởng Y tế Hoa Kỳ dự định thông tin về mối liên quan giữa chứng tự kỷ và việc phơi nhiễm với thuốc giảm đau và hạ sốt Tylenol trước khi sinh, như sau:
Tiêm chủng cho mẹ giúp bảo vệ cả mẹ và thai nhi khỏi một số bệnh nhiễm trùng. Lý tưởng nhất là tiêm chủng trước khi thụ thai, nhưng trong một số trường hợp, việc tiêm chủng trong thai kỳ cũng được chỉ định.
Nhiều bằng chứng cho thấy rằng, việc sử dụng kháng sinh ở bệnh nhân tiên lượng nặng bị suy thận cấp (STC) thường không đạt được mục tiêu dược lực học và tỉ lệ tử vong cao liên quan đến nhiễm trùng. Do đó, bài viết này đánh giá những thay đổi thông số về dược động học và dược lực học trên bệnh nhân nặng có STC và đề xuất những giải pháp để có thể tối ưu liều dùng kháng sinh trên những bệnh nhân này.
Trong bản dự thảo cuối cùng, Viện Y tế và Chất lượng Điều trị Quốc gia Anh (NICE) cho biết relugolix-estradiol-norethisterone là một lựa chọn để điều trị các triệu chứng lạc nội mạc tử cung ở những người phụ nữ trưởng thành đang trong độ tuổi sinh sản, nhưng không đáp ứng với phương pháp điều trị nội khoa hoặc phẫu thuật trước đó.
Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC), có khoảng 10% bệnh nhân tại Mỹ được báo cáo bị dị ứng penicillin. Tuy nhiên, dưới 1% bị dị ứng qua trung gian IgE (loại 1) và các nhà nghiên cứu lưu ý rằng, khoảng 80% bệnh nhân này sẽ mất độ nhạy cảm sau 10 năm. Hơn nữa, CDC khuyến nghị cần xác định những bệnh nhân không thực sự dị ứng penicillin để giảm việc sử dụng kháng sinh phổ rộng không cần thiết. Phản ứng chéo giữa penicillin và cephalosporinlà rất hiếm, nhưng nhiều bác sĩ tránh kê đơn cephalosporin cho bệnh nhân bị dị ứng penicillin, dẫn đến tăng cường sử dụng các loại kháng sinh khác như là quinolon, macrolid, clindamycin, carbapenem và vancomycin, thường gặp nhiều tác dụng phụ hơn, tăng chi phí chăm sóc sức khỏe và góp phần vào tình trạng đề kháng kháng sinh
Độc tính trên thận do thuốc là nguyên nhân phổ biến gây ra tổn thương thận cấp tính (AKI) và kháng sinh (KS) là một trong những nhóm thuốc lớn nhất liên quan đến AKI. Cơ chế gây độc tính trên thận do KS bao gồm tổn thương cầu thận, tổn thương hoặc rối loạn chức năng ống thận, tắc nghẽn ống lượn xa do trụ niệu và viêm thận kẽ cấp tính (AIN) do phản ứng quá mẫn loại IV (loại chậm). Các biểu hiện lâm sàng của độc tính trên thận do KS bao gồm hoại tử ống thận cấp (ATN), AIN và hội chứng Fanconi.