Liều Metronidazole hai lần một ngày: Biện luận về dược động học và lâm sàng
DS. Đặng Nguyễn Quỳnh Như
Khoa Dược
(Lược dịch)
Metronidazole, một loại kháng sinh thuộc nhóm nitroimidazole được sử dụng rộng rãi để điều trị nhiễm trùng kỵ khí, thường được dùng với chế độ liều 3 lần một ngày (TID). Tuy nhiên, thuốc có liên quan đến một số tác dụng phụ, chẳng hạn như khó chịu ở đường tiêu hóa và bệnh lý thần kinh ngoại biên, và có thể được giảm bằng cách dùng thuốc với tần suất ít hơn. Một cái nhìn sâu hơn về cơ sở dược động học và bằng chứng lâm sàng ủng hộ việc dùng liều hai lần mỗi ngày (BID) có thể mang lại chiến lược tối ưu nhất trong điều trị các bệnh nhiễm trùng khác nhau.
Metronidazole, một tiền chất có sinh khả dụng cao (> 90%) khi dùng đường uống, phân bố rộng rãi vào các dịch cơ thể và mô, ngoại trừ mô mỡ và mô nhau thai. Kháng sinh này trải qua quá trình chuyển hóa ở gan, tạo ra chất chuyển hóa hydroxy có hoạt tính với thời gian bán hủy tương đương với thời gian bán hủy của hợp chất gốc, khoảng 11 đến 13 giờ đối với chất chuyển hóa và 8 giờ đối với thuốc gốc. Metronidazole là một loại kháng sinh phụ thuộc vào nồng độ, thông số quan trọng để tối ưu hóa hiệu quả là nồng độ đỉnh trên nồng độ ức chế tối thiểu (MIC) của chủng phân lập.
Nghiên cứu dược động học của Earl và cộng sự (1986), các tác giả đã so sánh nồng độ đỉnh trong huyết thanh khi dùng liều BID 400mg đường uống và liều BID 500 mg tiêm tĩnh mạch. Nồng độ đỉnh trung bình khi dùng metronidazole đường uống và tiêm tĩnh mạch ở đối tượng này lần lượt là 17,4 mg/L và 23,6 mg/L. Tiêm tĩnh mạch 500mg TID cho nồng độ metronidazole tối đa trong huyết thanh trung bình dao động từ 15 đến 25 mg/L.
Một số nghiên cứu về kết quả lâm sàng ủng hộ trong việc dùng liều BID. Soule và cộng sự (2018) cho thấy tỷ lệ cải thiện lâm sàng tương đương giữa chế độ điều trị TID và BID (83% ở cả hai nhóm, p=1,00, khác biệt không có ý nghĩa thống kê) khi điều trị các bệnh nhiễm trùng kỵ khí, chỉ ra sự không thua kém giữa 2 chế độ điều trị. Ngoài ra, mặc dù không có sự khác biệt đáng kể về thời gian nằm viện giữa 2 nhóm, nhưng nhóm với chế độ liều BID có xu hướng nằm viện lâu hơn (5,2% so với 8,1%, p=0,110).
Shah và cộng sự (2021) không tìm thấy sự khác biệt về tỷ lệ tử vong giữa liều mỗi 8 giờ và mỗi 12 giờ đối với các bệnh nhiễm trùng máu do vi khuẩn kỵ khí, chủ yếu là Bacteroides fragilis. Đối với kết quả chính là tử vong do mọi nguyên nhân, không tìm thấy sự khác biệt đáng kể: 15,6% ở nhóm 8 giờ so với 9,4% ở nhóm 12 giờ. Đáng chú ý, nghiên cứu này đã loại trừ những bệnh nhân được điều trị nhiễm C. difficile và nhiễm trùng hệ thần kinh trung ương (CNS).
Lloyd và cộng sự (1994) đã nghiên cứu tỷ lệ nhiễm trùng sau phẫu thuật trong vòng 7 ngày sau khi nhổ răng hàm thứ ba hàm dưới khi bệnh nhân được dùng metronidazole để điều trị dự phòng. Kết quả cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về các biến chứng sau phẫu thuật giữa chế độ dùng thuốc BID và TID. Đáng chú ý, tỷ lệ buồn nôn cao hơn được quan sát thấy ở nhóm TID, với 15 bệnh nhân gặp phải tình trạng này khi dùng chế độ dùng thuốc mỗi 8 giờ so với 8 bệnh nhân trong chế độ dùng thuốc mỗi 12 giờ (p < 0,05)
Liều dùng metronidazole BID phù hợp với đặc điểm dược động học và được chứng tỏ không thua kém về mặt lâm sàng so với chế độ điều trị TID trong điều trị các bệnh nhiễm trùng khác nhau. Bảng dưới đây tóm tắt các khuyến nghị dùng thuốc dựa trên loại nhiễm trùng, trong đó một số nhiễm trùng đã có chỉ định BID. Liều metronidazole hai lần mỗi ngày đưa ra một cách tiếp cận hợp lý dựa trên các nguyên tắc dược động học và dữ liệu lâm sàng, có khả năng làm giảm các tác dụng phụ như buồn nôn. Ngoài ra, việc thực hiện chiến lược dùng thuốc này đã được chứng minh là làm giảm chi phí sử dụng kháng sinh hàng năm. Điều quan trọng là thiếu dữ liệu lâm sàng để hỗ trợ việc dùng liều BID để điều trị nhiễm trùng C. difficile và CNS. Các bác sĩ lâm sàng nên xem xét việc giảm tần suất dùng thuốc này trong các bệnh nhiễm trùng mà liều TID có thể không mang lại lợi ích bổ sung.
Liều khuyến cáo của metronidazole tương ứng với các chỉ định |
|
Nhiễm amip |
500-750mg mỗi 8 giờ |
Viêm âm đạo do vi khuẩn |
500mg mỗi 12 giờ |
Nhiễm trùng do vết cắn (Dự phòng hoặc điều trị) |
500-750mg mỗi 8 giờ |
Clostridium difficile (off-label) |
500mg mỗi 8 giờ |
Nhiễm Giardia (off-label) |
250mg mỗi 8 giờ hoặc 500mg mỗi 12 giờ |
Helicobacter pylori (off-label) |
Phác đồ 3 thuốc có clarithromycin: 500mg mỗi 8 giờ. Phác đồ 4 thuốc có bismuth: 250mg mỗi 6 giờ hoặc 500mg mỗi 6 – 8 giờ Phác đồ nối tiếp: 500mg mỗi 12 giờ |
Nhiễm khuẩn ổ bụng |
500mg mỗi 8 giờ |
Áp xe nội sọ |
7,5mg/kg mỗi 6 -8 giờ |
Viêm nướu cấp liên quan đến mảng bám (off-label) |
500mg mỗi 8 giờ |
Viêm nha chu liên quan đến mảng bám (off-label) |
|
Nhiễm trùng mô mềm có sinh mủ (off-label) |
|
Viêm phổi do hít phải |
|
Viêm túi thừa (off-label) |
500mg mỗi 12 giờ |
Viêm vùng chậu |
|
Điều trị Trichomonas ban đầu |
Nữ: 500mg mỗi 12 giờ Nam: 2g liều duy nhất hoặc 500mg mỗi 12 giờ |
Nhiễm trùng hoại tử |
500mg mỗi 6 giờ |
Nhiễm trùng vết mổ |
500mg mỗi 8 giờ |
Uốn ván |
500mg mỗi 6 - 8 giờ |
Nguồn
https://www.pharmacytimes.com/view/metronidazole-twice-daily-a-pharmacokinetic-and-clinical-justification
Probiotics được định nghĩa là “các vi sinh vật sống, khi được đưa vào cơ thể với số lượng đủ, sẽ mang lại lợi ích cho sức khỏe của vật chủ”. Các chủng vi khuẩn tạo axit lactic là quan trọng nhất trong thực phẩm và dinh dưỡng, chủng thuộc chi Lactobacillus và Bifidobacterium là những probiotic được sử dụng phổ biến nhất, ngoài ra còn kể đến các chi Bacillus, Streptococcus, Enterococcus, Saccharomyces và Escherichia coli
- Bệnh viện đã thực hiện 378 báo cáo ADR, giảm 7,9% so với năm 2023 (408 báo cáo), tăng 14,2% so với năm 2022 (331 báo cáo).
- Số lượng báo cáo ADR ngoại trú là 18 báo cáo, giảm 3,6 lần so với năm 2023 (66 báo cáo).
- Bệnh viện Từ Dũ được Trung tâm DI&ADR quốc gia xếp hạng 8/991 cơ sở khám chữa bệnh có hoạt động theo dõi ADR hiệu quả trong báo cáo tổng kết ADR quốc gia vào tháng 9/2024.
Mirvetuximab soravtansine-gynx đã được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) phê duyệt điều trị cho bệnh nhân trưởng thành mắc ung thư biểu mô buồng trứng, ống dẫn trứng, hoặc ung thư phúc mạc nguyên phát dương tính với thụ thể folat alpha (FRα), kháng hóa trị, là những bệnh nhân đã trải qua 3 liệu trình điều trị trước đó. Theo các chuyên gia, bệnh nhân mắc các loại ung thư này thường được phát hiện khi bệnh đã ở giai đoạn muộn, trải qua phẫu thuật và sau đó được điều trị bằng phác đồ hóa trị có platinum nhưng có thể trở nên kháng thuốc.
Kháng sinh (KS) phổ rộng được xem như “thần dược” để điều trị các bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng hoặc đe dọa tính mạng khi tác nhân gây bệnh chưa được xác định. Mục đích sử dụng KS phổ rộng nhằm bao phủ nhiều loại tác nhân vi khuẩn gram dương và gram âm, bao gồm cả các tác nhân kháng thuốc trong khi chờ kết quả nuôi cấy. Tuy nhiên, việc sử dụng bừa bãi các KS phổ rộng cũ và mới đã góp phần đáng kể vào sự gia tăng tình trạng kháng kháng sinh (AMR) – một vấn đề sức khỏe toàn cầu đáng lưu ý.
Những dữ kiện của một nghiên cứu tiền lâm sàng cho thấy: đái tháo đường thai kỳ (ĐTĐTK) có thể làm tăng nguy cơ nhiễm trùng và tử vong ở trẻ sơ sinh nguyên nhân do liên cầu khuẩn nhóm B (GBS). Có nhiều lý do như: thay đổi hệ vi sinh vật âm đạo, giảm đáp ứng miễn dịch và quá trình điều hoà thích nghi của vi khuẩn.
Tiền sản giật là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong mẹ. Bệnh lý tiền sản giật có liên quan đến sự xâm lấn tế bào nuôi nhau thai và sự tái cấu trúc động mạch xoắn tử cung. Với đặc tính kháng viêm, aspirin được giả thuyết rằng có thể cải thiện sự bám nhau giúp ngăn ngừa tiền sản giật. Vì vậy, spirin liều thấp được khuyến cáo sử dụng để dự phòng tiền sản giật trong thai kỳ. Mặt khác, aspirin cũng được chỉ định cho các trường hợp thai giới hạn tăng trưởng, sinh non, thai lưu.