Liệu pháp hormone vẫn là phương pháp hiệu quả nhất trong điều trị triệu chứng vận mạch (vms) ở phụ nữ mãn kinh
DS. Cao Phan Thu Hằng, khoa Dược (lược dịch)
K. Dược
Triệu chứng vận mạch (Vasomotor symptoms – VMS): bao gồm cơn bốc hỏa và đổ mồ hôi, là các triệu chứng phổ biến trong thời kỳ tiền mãn kinh và ngay sau mãn kinh. Ở hầu hết phụ nữ, các triệu chứng vận mạch liên quan mãn kinh giảm dần theo thời gian mà không cần bất kỳ sự can thiệp nào.
Mặc dù có những lựa chọn mới không sử dụng hormone trong điều trị triệu chứng vận mạch (VMS) ở phụ nữ tiền mãn kinh, liệu pháp hormone vẫn là phương pháp điều trị hiệu quả nhất đối với các triệu chứng vận mạch và nên được cân nhắc cho phụ nữ mãn kinh khỏe mạnh mà không có chống chỉ định trong vòng 10 năm kể từ chu kỳ kinh cuối cùng.
Tổ chức Mãn kinh Bắc Mỹ (NAMS – North American Menopause Society) khuyến nghị cập nhật sau lần đánh giá khoa học kể từ năm 2015. Công bố này hướng đến việc kiểm soát các triệu chứng không do sự thay đổi nội tiết tố như bốc hỏa và đổ mồ hôi ban đêm, xảy ra ở 80% phụ nữ mãn kinh không can thiệp điều trị, công bố trong Tạp chí Tổ chức Mãn kinh Bắc Mỹ số tháng 6.
MD, MS. Chrisandra L. Shufel, tư vấn viên của Tổ chức Mãn kinh Bắc Mỹ (NAMS) phát biểu rằng: "Phụ nữ có chống chỉ định hoặc không đồng thuận điều trị bằng liệu pháp hormone nên được tư vấn về các lựa chọn điều trị không nội tiết tố dựa trên bằng chứng hiệu quả. Một trong những phát hiện thú vị cho thấy chứng cứ rõ ràng của việc sử dụng liệu pháp không hormone trong điều trị bàng quang tăng hoạt là oxybutynin (off-label) có thể làm giảm tỷ lệ các cơn bốc hỏa. Tuy nhiên, không phải tất cả các triệu chứng liên quan đến mãn kinh đều là triệu chứng vận mạch, mặc dù có nhiều sự lựa chọn, như sử dụng thiết bị làm mát và tập thể dục lại không được khuyến nghị để kiểm soát các cơn bốc hỏa, nhưng việc thay đổi chế độ ăn uống và tập thể dục có thể có lợi vì những lý do sức khỏe khác."
Mặc dù, liệu pháp hormone là lựa chọn hiệu quả nhất cho VMS, nhưng lại không phù hợp đối với những phụ nữ có chống chỉ định như tiền sử có cục máu đông, ung thư phụ thuộc estrogen (nhạy cảm hormone, thụ thể estrogen dương tính,…), tiền sử gia đình có người mắc bệnh ung thư hoặc trường hợp không thể sử dụng hormone. Vì vậy, các lựa chọn không hormone rất quan trọng để tránh lãng phí thời gian và chi phí.
Khuyến cáo về việc sử dụng liệu pháp không hormone
Theo NAMS, từ việc xem xét chặt chẽ các bằng chứng khoa học cho đến nay, các liệu pháp sau đây có hiệu quả: nhận thức - hành vi; thôi miên lâm sàng; SSRIs (chất ức chế tái thu hồi chọn lọc serotonin) và chất ức chế tái thu hồi serotonin-norepinephrine, những lựa chọn trên giúp cải thiện tình trạng từ nhẹ đến trung bình; Gabapentin – thuốc làm giảm tần suất và mức độ nghiêm trọng của các cơn bốc hỏa; Fezolinetant (Veozah) - một chất đối kháng neurokinin B thế hệ một đã được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm chấp thuận trong điều trị triệu chứng vận mạch vào tháng 5/2023; và oxybutynin - thuốc kháng muscarinic, kháng cholinergic, làm giảm VMS từ trung bình đến nặng, mặc dù sử dụng lâu dài ở người lớn tuổi có thể liên quan đến suy giảm nhận thức, giảm cân và phong bế hạch sao.
Các liệu pháp không hiệu quả, có liên quan đến tác dụng phụ (AE) hoặc thiếu bằng chứng đầy đủ về hiệu quả, do đó không được khuyến cáo sử dụng trong điều trị VMS bao gồm: hít thở; thực phẩm chức năng và thảo dược như mao lương, kế sữa và hoa anh thảo; thiết bị làm mát; tránh kích động; tập thể dục và yoga; can thiệp và thư giãn dựa vào chánh niệm; suvorexant - một chất đối kháng thụ thể orexin kép được sử dụng trong điều trị mất ngủ; đậu nành, chất chiết xuất và chuyển hóa từ đậu nành; chất kích thích; kĩ thuật châm cứu; nắn chỉnh cột sống không dùng thuốc; clonidin - một chất chủ vận thụ thể alpha-2 adrenergic có liên quan đáng kể đến các tác dụng phụ mà không có bằng chứng gần đây về lợi ích so với giả dược; điều chỉnh chế độ ăn uống; pregabalin – thuốc có liên quan đến các tác dụng phụ đáng kể và có chứa thành phần cần được kiểm soát khi kê đơn. Cuối cùng, nên cá thể hóa việc chăm sóc phụ nữ giai đoạn mãn kinh trên từng đối tượng cụ thể.
Liệu pháp hormone vẫn là lựa chọn hiệu quả nhất
MD Jill M. Rabin, Bệnh viện Đại học Northshore, đồng ý rằng liệu pháp hormone là lựa chọn hiệu quả nhất trong điều trị VMS và thường xuyên kê đơn cho những đối tượng phù hợp dưới nhiều hình thức khác nhau tùy thuộc vào loại và mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng mãn kinh. Một số lựa chọn không hormone không được đề xuất trong tuyên bố của NAMS hiện tại, vẫn có thể chứng minh là có hiệu quả khi có nhiều dữ liệu hơn. Chẳng hạn, có thể xem xét suvorexant, nhưng hiện tại không có đủ dữ liệu về hiệu quả của thuốc. Khi già hóa dân số, ngày càng có nhiều phụ nữ ở trong thời kỳ tiền mãn kinh và mãn kinh và một số bệnh nhân có thể không sử dụng được liệu pháp hormone. Cần tiếp tục nghiên cứu thêm về các liệu pháp không hormone. Có rất ít tác hại khi thử thay đổi lối sống hay các liệu pháp thay thế (chưa có bằng chứng lợi ích rõ ràng).
Tài liệu nguồn:
Medscape, Diana Swift, June 12, 2023
https://www.medscape.com/s/viewarticle/993077#vp_2
Cách tốt nhất để bảo vệ chống lại bệnh sởi là tiêm vắc xin phòng ngừa sởi, quai bị và rubella (MMR). Trẻ em có thể tiêm vắc xin phòng ngừa sởi, quai bị, rubella và thủy đậu (MMRV) để thay thế. Hầu hết những người được tiêm vắc-xin MMR và MMRV sẽ được bảo vệ suốt đời.
Việc nhai, bẻ, nghiền các loại thuốc viên đôi khi cần thiết trong một số trường hợp. Tuy nhiên, các thuốc có dạng bào chế đặc biệt nếu bị nhai, bẻ, nghiền có thể ảnh hưởng đến tác dụng điều trị và tính an toàn của thuốc. Chẳng hạn như nếu nghiền viên phóng thích chậm hoặc phóng thích kéo dài sẽ gây phóng thích một lượng lớn hoạt chất tại một thời điểm nhất định, gây quá liều thuốc và gây nguy hiểm cho người bệnh. Nghiền viên bao tan trong ruột có thể làm cho thuốc bị bất hoạt ở dạ dày hoặc gây kích ứng cho đường tiêu hóa.
Cúm là một bệnh đường hô hấp cấp tính do vi-rút cúm A hoặc B gây ra, xảy ra thành các đợt bùng phát và dịch bệnh trên toàn thế giới, chủ yếu vào mùa đông. Tỷ lệ mắc bệnh và tử vong liên quan đến cúm cao hơn ở những phụ nữ mang thai và mới sinh (trong vòng hai tuần sau khi sinh hoặc sảy thai) so với dân số nói chung.
Probiotics được định nghĩa là “các vi sinh vật sống, khi được đưa vào cơ thể với số lượng đủ, sẽ mang lại lợi ích cho sức khỏe của vật chủ”. Các chủng vi khuẩn tạo axit lactic là quan trọng nhất trong thực phẩm và dinh dưỡng, chủng thuộc chi Lactobacillus và Bifidobacterium là những probiotic được sử dụng phổ biến nhất, ngoài ra còn kể đến các chi Bacillus, Streptococcus, Enterococcus, Saccharomyces và Escherichia coli
- Bệnh viện đã thực hiện 378 báo cáo ADR, giảm 7,9% so với năm 2023 (408 báo cáo), tăng 14,2% so với năm 2022 (331 báo cáo).
- Số lượng báo cáo ADR ngoại trú là 18 báo cáo, giảm 3,6 lần so với năm 2023 (66 báo cáo).
- Bệnh viện Từ Dũ được Trung tâm DI&ADR quốc gia xếp hạng 8/991 cơ sở khám chữa bệnh có hoạt động theo dõi ADR hiệu quả trong báo cáo tổng kết ADR quốc gia vào tháng 9/2024.
Mirvetuximab soravtansine-gynx đã được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) phê duyệt điều trị cho bệnh nhân trưởng thành mắc ung thư biểu mô buồng trứng, ống dẫn trứng, hoặc ung thư phúc mạc nguyên phát dương tính với thụ thể folat alpha (FRα), kháng hóa trị, là những bệnh nhân đã trải qua 3 liệu trình điều trị trước đó. Theo các chuyên gia, bệnh nhân mắc các loại ung thư này thường được phát hiện khi bệnh đã ở giai đoạn muộn, trải qua phẫu thuật và sau đó được điều trị bằng phác đồ hóa trị có platinum nhưng có thể trở nên kháng thuốc.