Liệu pháp thay thế estrogen có thể giúp phòng ngừa bệnh Alzheimer ở phụ nữ
DS. Lê Thanh Hà – Khoa Dược (Dịch)
Theo một nghiên cứu mới công bố trên tạp chí Journal of Alzheimer’s Disease, liệu pháp thay thế estrogen có thể giúp bảo vệ phụ nữ chống lại bệnh Alzheimer.
Chỉ tính riêng tại Hoa Kỳ, đã có khoảng 5,5 triệu người bị ảnh hưởng bởi bệnh Alzheimer. Theo nghiên cứu này, ước tính có khoảng 24 triệu người trên thế giới đang phải sống chung với căn bệnh sa sút trí tuệ, con số này được dự đoán sẽ tăng gấp đôi vào năm 2050. Những dấu hiệu sớm của bệnh Alzheimer bao gồm tình trạng không thể hình thành những ký ức gần đây, trước khi nó ảnh hưởng tất yếu đến mọi hoạt động trí tuệ. Sự suy giảm này cuối cùng dẫn đến việc các chức năng cơ bản của cuộc sống hàng ngày đều bị phụ thuộc hoàn toàn và người bệnh sẽ sớm tử vong. Yếu tố nguy cơ của bệnh Alzheimer bao gồm tuổi, giai đoạn sinh sản và nồng độ các hormon.
Theo nghiên cứu này, giới tính sinh học ảnh hưởng đến tác động của amyloid beta đối với sự thay đổi các đặc tính của protein tau, từ đó dẫn đến hình thành bệnh Alzheimer, điều này có nghĩa là estradiol có thể có vai trò trong việc ngăn ngừa bệnh Alzheimer ở phụ nữ. Để kiểm chứng giả thuyết này, các nhà nghiên cứu đã tiến hành tiêm amyloid beta 42 (AB42) ở nồng độ nano phân tử vào não thất của những con chuột được chuyển gen biểu hiện protein tau thể hoang dã của người. Các nhà nghiên cứu thấy rằng ở nhóm chuột cái đã cắt buồng trứng, AB42 gây ra dạng bệnh lý của protein tau, tình trạng này không xảy ra ở nhóm đối chứng. Họ cũng phát hiện ra rằng liệu pháp thay thế estrogen đã đảo ngược tác động này thông qua hoạt động chống oxy hóa và giảm phosphoryl hóa protein tau.
Trong thông cáo báo chí, Tiến sĩ Massimo Tabaton – đồng nghiên cứu viên chính của nghiên cứu cho biết: “Nghiên cứu của chúng tôi chỉ ra rằng các yếu tố như tuổi, giai đoạn sinh sản, nồng độ hormon cũng như tác động lẫn nhau với các yếu tố nguy cơ khác nên được xem xét để xác định phương pháp điều trị thích hợp nhất nhằm ngăn ngừa sự suy giảm nhận thức ở phụ nữ. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy liệu pháp thay thế estrogen trong thời kỳ mãn kinh sớm có thể giúp bảo vệ phụ nữ khỏi bệnh Alzheimer.”
Việc tìm ra phương pháp để ngăn ngừa bệnh Alzheimer ở phụ nữ là đặc biệt quan trọng vì phụ nữ có tỉ lệ mắc Alzheimer cao hơn nam giới. Trung bình, trong 6 phụ nữ trên 65 tuổi, có 1 người mắc Alzheimer, tỉ lệ này ở nam giới là 1 trên 11 người.
Tài liệu tham khảo:
https://www.pharmacytimes.com/news/estrogen-replacement-may-help-prevent-alzheimer-disease-in-women, ngày truy cập: 06/10/2020
Acetaminophen (paracetamol) đã được sử dụng để hạ sốt và giảm đau từ nhẹ đến trung bình. Thuốc có sẵn ở dạng đơn chất hoặc kết hợp với các thuốc khác để điều trị các triệu chứng cảm lạnh, cúm, đau đầu và viêm xương khớp. Tên thương mại phổ biến là Tylenol. Theo Tạp chí Wall Street Journal đưa tin, Bộ trưởng Y tế Hoa Kỳ dự định thông tin về mối liên quan giữa chứng tự kỷ và việc phơi nhiễm với thuốc giảm đau và hạ sốt Tylenol trước khi sinh, như sau:
Tiêm chủng cho mẹ giúp bảo vệ cả mẹ và thai nhi khỏi một số bệnh nhiễm trùng. Lý tưởng nhất là tiêm chủng trước khi thụ thai, nhưng trong một số trường hợp, việc tiêm chủng trong thai kỳ cũng được chỉ định.
Nhiều bằng chứng cho thấy rằng, việc sử dụng kháng sinh ở bệnh nhân tiên lượng nặng bị suy thận cấp (STC) thường không đạt được mục tiêu dược lực học và tỉ lệ tử vong cao liên quan đến nhiễm trùng. Do đó, bài viết này đánh giá những thay đổi thông số về dược động học và dược lực học trên bệnh nhân nặng có STC và đề xuất những giải pháp để có thể tối ưu liều dùng kháng sinh trên những bệnh nhân này.
Trong bản dự thảo cuối cùng, Viện Y tế và Chất lượng Điều trị Quốc gia Anh (NICE) cho biết relugolix-estradiol-norethisterone là một lựa chọn để điều trị các triệu chứng lạc nội mạc tử cung ở những người phụ nữ trưởng thành đang trong độ tuổi sinh sản, nhưng không đáp ứng với phương pháp điều trị nội khoa hoặc phẫu thuật trước đó.
Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC), có khoảng 10% bệnh nhân tại Mỹ được báo cáo bị dị ứng penicillin. Tuy nhiên, dưới 1% bị dị ứng qua trung gian IgE (loại 1) và các nhà nghiên cứu lưu ý rằng, khoảng 80% bệnh nhân này sẽ mất độ nhạy cảm sau 10 năm. Hơn nữa, CDC khuyến nghị cần xác định những bệnh nhân không thực sự dị ứng penicillin để giảm việc sử dụng kháng sinh phổ rộng không cần thiết. Phản ứng chéo giữa penicillin và cephalosporinlà rất hiếm, nhưng nhiều bác sĩ tránh kê đơn cephalosporin cho bệnh nhân bị dị ứng penicillin, dẫn đến tăng cường sử dụng các loại kháng sinh khác như là quinolon, macrolid, clindamycin, carbapenem và vancomycin, thường gặp nhiều tác dụng phụ hơn, tăng chi phí chăm sóc sức khỏe và góp phần vào tình trạng đề kháng kháng sinh
Độc tính trên thận do thuốc là nguyên nhân phổ biến gây ra tổn thương thận cấp tính (AKI) và kháng sinh (KS) là một trong những nhóm thuốc lớn nhất liên quan đến AKI. Cơ chế gây độc tính trên thận do KS bao gồm tổn thương cầu thận, tổn thương hoặc rối loạn chức năng ống thận, tắc nghẽn ống lượn xa do trụ niệu và viêm thận kẽ cấp tính (AIN) do phản ứng quá mẫn loại IV (loại chậm). Các biểu hiện lâm sàng của độc tính trên thận do KS bao gồm hoại tử ống thận cấp (ATN), AIN và hội chứng Fanconi.