Liệu trình kháng sinh 3 ngày trong điều trị nhiễm trùng tiểu không biến chứng
Ds Thân Thị Mỹ Linh (dịch)
Khoa Dược – Bv Từ Dũ
Theo hướng dẫn của Public Health England (PHE) về quản lý các bệnh nhiễm trùng thường gặp, liệu trình kháng sinh 3 ngày là đủ để điều trị nhiễm trùng tiểu cấp tính không biến chứng ở hầu hết phụ nữ không mang thai. Nhiễm trùng tiểu không biến chứng là nhiễm trùng ở những phụ nữ có cấu trúc đường tiết niệu và chức năng thận bình thường. Liệu trình 7 ngày nên được sử dụng điều trị nhiễm trùng tiểu ở nam giới.
Khuyến cáo lựa chon kháng sinh và liều lượng sử dụng
- Nitrofurantoin (viên phóng thích có kiểm soát 100 mg x 2 lần/ngày) được khuyến cáo là lựa chọn đầu tay ở những người có tốc độ lọc cầu thận GFR > 45 ml/phút do tình hình đề kháng E. coli và xuất hiện các chủng E. coli đa đề kháng trong cộng đồng đang gia tăng.
- Nếu GFR từ 30 đến 45 ml/phút, nitrofurantoin nên được sử dụng nếu có tình trạng kháng thuốc và không có thuốc thay thế.
- Tùy tình hình đề kháng thuốc tại địa phương hoặc nếu GFR < 45 ml/phút, khuyến cáo sử dụng trimethoprim 200 mg 2 lần/ngày) hoặc pivmecillinam (liều đầu tiên 400 mg, sau đó là 200 mg 3 lần/ngày).
Hướng dẫn của PHE về quản lý các bệnh nhiễm trùng thường gặp khuyến cáo rằng nên kiểm tra độ nhạy của thuốc nếu điều trị đầu tay thất bại. Mặc dù tỷ lệ đề kháng với trimethoprim là cao (20 - 40%) nhưng kết quả này dựa trên mẫu nước tiểu lấy từ bệnh viện và các trạm y tế. Những mẫu này có thể không đại diện cho các trường hợp phức tạp hơn và thất bại điều trị. Tình trạng đề kháng amoxicillin phổ biến, chỉ nên được sử dụng chỉ nếu kết quả vi sinh còn nhạy cảm. Khi kháng sinh phổ hẹp vẫn còn hiệu quả, kháng sinh phổ rộng (co-amoxiclav, các quinolon và cephalosporin) nên tránh vì chúng làm tăng nguy cơ phát sinh các chủng Clostridium difficile, Staphylococcus aureus đề kháng methicillin (MRSA) và các chủng gây nhiễm trùng tiểu kháng thuốc.
Một tổng quan của Cochran ủng hộ việc sử dụng liệu trình kháng sinh 3 ngày trong điều trị nhiễm trùng tiểu không biến chứng. Tỷ lệ thất bại có triệu chứng được đánh giá ngắn hạn và dài hạn, không có sự khác biệt có ý nghĩa ở những người vẫn còn có triệu chứng sau 3 ngày hoặc từ 5 đến 10 ngày điều trị kháng sinh. Tuy nhiên, liệu trình kháng sinh ngắn ngày giúp giảm 17% tác dụng phụ. Bài tổng quan kết luận rằng liệu trình kháng sinh 3 ngày có hiệu quả tương tự như liệu trình kháng sinh 5-10 ngày trong điều trị các triệu chứng ở phụ nữ 18-65 tuổi không mang thai. Liệu trình điều trị dài ngày có hiệu quả hơn trong điều trị vi khuẩn. Do đó, liệu trình dài ngày có thể sử dụng trong điều trị nhiễm trùng tiểu phức tạp (viêm bể thận, mang thai và nhiễm trùng tiểu tái phát) cần điều trị triệt để vi trùng gây bệnh.
Một nghiên cứu của NICE (National Institute for Health and Care Excellence) về xu hướng thực hành tốt kê đơn kháng sinh của Vương quốc Anh. Trong nhiễm trùng tiểu không biến chứng ở phụ nữ 16-74 tuổi, việc sử dụng liệu trình 3 ngày kháng sinh trimethoprim tăng từ 8,4% năm 1995 lên 49,5% trong năm 2011.
Tài liệu tham khảo
Probiotics được định nghĩa là “các vi sinh vật sống, khi được đưa vào cơ thể với số lượng đủ, sẽ mang lại lợi ích cho sức khỏe của vật chủ”. Các chủng vi khuẩn tạo axit lactic là quan trọng nhất trong thực phẩm và dinh dưỡng, chủng thuộc chi Lactobacillus và Bifidobacterium là những probiotic được sử dụng phổ biến nhất, ngoài ra còn kể đến các chi Bacillus, Streptococcus, Enterococcus, Saccharomyces và Escherichia coli
- Bệnh viện đã thực hiện 378 báo cáo ADR, giảm 7,9% so với năm 2023 (408 báo cáo), tăng 14,2% so với năm 2022 (331 báo cáo).
- Số lượng báo cáo ADR ngoại trú là 18 báo cáo, giảm 3,6 lần so với năm 2023 (66 báo cáo).
- Bệnh viện Từ Dũ được Trung tâm DI&ADR quốc gia xếp hạng 8/991 cơ sở khám chữa bệnh có hoạt động theo dõi ADR hiệu quả trong báo cáo tổng kết ADR quốc gia vào tháng 9/2024.
Mirvetuximab soravtansine-gynx đã được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) phê duyệt điều trị cho bệnh nhân trưởng thành mắc ung thư biểu mô buồng trứng, ống dẫn trứng, hoặc ung thư phúc mạc nguyên phát dương tính với thụ thể folat alpha (FRα), kháng hóa trị, là những bệnh nhân đã trải qua 3 liệu trình điều trị trước đó. Theo các chuyên gia, bệnh nhân mắc các loại ung thư này thường được phát hiện khi bệnh đã ở giai đoạn muộn, trải qua phẫu thuật và sau đó được điều trị bằng phác đồ hóa trị có platinum nhưng có thể trở nên kháng thuốc.
Kháng sinh (KS) phổ rộng được xem như “thần dược” để điều trị các bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng hoặc đe dọa tính mạng khi tác nhân gây bệnh chưa được xác định. Mục đích sử dụng KS phổ rộng nhằm bao phủ nhiều loại tác nhân vi khuẩn gram dương và gram âm, bao gồm cả các tác nhân kháng thuốc trong khi chờ kết quả nuôi cấy. Tuy nhiên, việc sử dụng bừa bãi các KS phổ rộng cũ và mới đã góp phần đáng kể vào sự gia tăng tình trạng kháng kháng sinh (AMR) – một vấn đề sức khỏe toàn cầu đáng lưu ý.
Những dữ kiện của một nghiên cứu tiền lâm sàng cho thấy: đái tháo đường thai kỳ (ĐTĐTK) có thể làm tăng nguy cơ nhiễm trùng và tử vong ở trẻ sơ sinh nguyên nhân do liên cầu khuẩn nhóm B (GBS). Có nhiều lý do như: thay đổi hệ vi sinh vật âm đạo, giảm đáp ứng miễn dịch và quá trình điều hoà thích nghi của vi khuẩn.
Tiền sản giật là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong mẹ. Bệnh lý tiền sản giật có liên quan đến sự xâm lấn tế bào nuôi nhau thai và sự tái cấu trúc động mạch xoắn tử cung. Với đặc tính kháng viêm, aspirin được giả thuyết rằng có thể cải thiện sự bám nhau giúp ngăn ngừa tiền sản giật. Vì vậy, spirin liều thấp được khuyến cáo sử dụng để dự phòng tiền sản giật trong thai kỳ. Mặt khác, aspirin cũng được chỉ định cho các trường hợp thai giới hạn tăng trưởng, sinh non, thai lưu.