Metformin không cải thiện kết cục thai kỳ ở phụ nữ thừa cân
Ths.Ds Thân Thị Mỹ Linh – Khoa Dược
(lược dịch)
Theo kết quả của một thử nghiệm lâm sàng từ Úc, việc chỉ định sử dụng metformin kèm theo các thay đổi chế độ ăn uống và lối sống không cải thiện kết cục thai kỳ ở những phụ nữ thừa cân hoặc béo phì.
Kết quả nghiên cứu của bác sĩ Jodie Dodd và cộng sự tại bệnh viện Sản Nhi, Bắc Adelaide đăng trên tạp chí The Lancet Diabetes & Endocrinology, trực tuyến ngày 4 tháng 12; khuyến cáo không nên sử dụng metformin; các nghiên cứu trong tương lai nên tập trung vào việc cải thiện sức khỏe phụ nữ và thực hiện các chế độ ăn uống để kiểm soát cân nặng trước khi thụ thai.
Nghiên cứu GRoW đã thử nghiệm tác dụng của việc chỉ định thêm metformin trước khi sinh (liều tối đa 2.000 mg/ngày hoặc giả dược) cùng với các hướng dẫn về chế độ ăn uống và lối sống đối với kết cục của bà mẹ và trẻ sơ sinh ở 514 phụ nữ mang thai tham gia nghiên cứu có tuổi thai từ 10 đến 20 tuần và chỉ số BMI từ 25 kg/m2 trở lên.
Các nhà nghiên cứu không tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ trẻ sơ sinh có cân nặng trên 4.000 g giữa nhóm metformin và nhóm giả dược (16% so với 14%; RR, 0,97; P = 0,899).
Một kết quả khác của nghiên cứu cho thấy metformin không có tác dụng đối với việc kiểm soát cân nặng trong thai kỳ, mặc dù phụ nữ dùng metformin có mức tăng cân trung bình hàng tuần thấp hơn (độ lệch trung bình, -0,08 kg; P = 0,007) và tăng cân thai kỳ dưới mức khuyến cáo (RR, 1,46; P = 0,008).
Kết cục của bà mẹ và trẻ sơ sinh; chế độ ăn uống, hoạt động thể chất, chất lượng cuộc sống và tinh thần của người mẹ không khác biệt đáng kể giữa các nhóm. Do đó, metformin không ảnh hưởng đến kết cục mang thai và sơ sinh lâm sàng. Kết luận của nghiên cứu phù hợp với các tài liệu khoa học hiện có.
Các nhà nghiên cứu nhấn mạnh rằng đối với phụ nữ mang thai thừa cân hoặc béo phì, can thiệp trong giai đoạn mang thai (sử dụng metformin, thay đổi chế độ ăn uống hoặc lối sống, hoặc kết hợp cả hai) có thể là quá ít và quá muộn. Những người thừa cân hoặc béo phì cần cải thiện chế độ ăn uống và lối sống và kiểm soát cân nặng trước khi thụ thai. Đồng thời khuyến cáo thai phụ kiểm soát để tránh tăng cân quá mức khi mang thai, điều này sẽ làm giảm nguy cơ thừa cân sau sinh, giảm béo phì hoặc béo phì trong lần mang thai tiếp theo.
Tài liệu tham khảo
Probiotics được định nghĩa là “các vi sinh vật sống, khi được đưa vào cơ thể với số lượng đủ, sẽ mang lại lợi ích cho sức khỏe của vật chủ”. Các chủng vi khuẩn tạo axit lactic là quan trọng nhất trong thực phẩm và dinh dưỡng, chủng thuộc chi Lactobacillus và Bifidobacterium là những probiotic được sử dụng phổ biến nhất, ngoài ra còn kể đến các chi Bacillus, Streptococcus, Enterococcus, Saccharomyces và Escherichia coli
- Bệnh viện đã thực hiện 378 báo cáo ADR, giảm 7,9% so với năm 2023 (408 báo cáo), tăng 14,2% so với năm 2022 (331 báo cáo).
- Số lượng báo cáo ADR ngoại trú là 18 báo cáo, giảm 3,6 lần so với năm 2023 (66 báo cáo).
- Bệnh viện Từ Dũ được Trung tâm DI&ADR quốc gia xếp hạng 8/991 cơ sở khám chữa bệnh có hoạt động theo dõi ADR hiệu quả trong báo cáo tổng kết ADR quốc gia vào tháng 9/2024.
Mirvetuximab soravtansine-gynx đã được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) phê duyệt điều trị cho bệnh nhân trưởng thành mắc ung thư biểu mô buồng trứng, ống dẫn trứng, hoặc ung thư phúc mạc nguyên phát dương tính với thụ thể folat alpha (FRα), kháng hóa trị, là những bệnh nhân đã trải qua 3 liệu trình điều trị trước đó. Theo các chuyên gia, bệnh nhân mắc các loại ung thư này thường được phát hiện khi bệnh đã ở giai đoạn muộn, trải qua phẫu thuật và sau đó được điều trị bằng phác đồ hóa trị có platinum nhưng có thể trở nên kháng thuốc.
Kháng sinh (KS) phổ rộng được xem như “thần dược” để điều trị các bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng hoặc đe dọa tính mạng khi tác nhân gây bệnh chưa được xác định. Mục đích sử dụng KS phổ rộng nhằm bao phủ nhiều loại tác nhân vi khuẩn gram dương và gram âm, bao gồm cả các tác nhân kháng thuốc trong khi chờ kết quả nuôi cấy. Tuy nhiên, việc sử dụng bừa bãi các KS phổ rộng cũ và mới đã góp phần đáng kể vào sự gia tăng tình trạng kháng kháng sinh (AMR) – một vấn đề sức khỏe toàn cầu đáng lưu ý.
Những dữ kiện của một nghiên cứu tiền lâm sàng cho thấy: đái tháo đường thai kỳ (ĐTĐTK) có thể làm tăng nguy cơ nhiễm trùng và tử vong ở trẻ sơ sinh nguyên nhân do liên cầu khuẩn nhóm B (GBS). Có nhiều lý do như: thay đổi hệ vi sinh vật âm đạo, giảm đáp ứng miễn dịch và quá trình điều hoà thích nghi của vi khuẩn.
Tiền sản giật là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong mẹ. Bệnh lý tiền sản giật có liên quan đến sự xâm lấn tế bào nuôi nhau thai và sự tái cấu trúc động mạch xoắn tử cung. Với đặc tính kháng viêm, aspirin được giả thuyết rằng có thể cải thiện sự bám nhau giúp ngăn ngừa tiền sản giật. Vì vậy, spirin liều thấp được khuyến cáo sử dụng để dự phòng tiền sản giật trong thai kỳ. Mặt khác, aspirin cũng được chỉ định cho các trường hợp thai giới hạn tăng trưởng, sinh non, thai lưu.