Một số cập nhật trong điều trị liên cầu khuẩn nhóm B và thai kỳ
ThS. DS. Huỳnh Phương Thảo – Khoa Dược (lược dịch)
Liên cầu khuẩn nhóm B (Group B streptococcus – GBS, còn gọi là Streptococcus agalactiae) là một vi khuẩn Gram dương, thường gặp ở đường tiêu hóa và đường sinh dục của người phụ nữ, có thể không gây triệu chứng trên người mang bệnh. Tuy nhiên GBS là tác nhân nhiễm khuẩn hàng đầu liên quan đến thai kỳ và trẻ sơ sinh với tỷ lệ mắc và tử vong cao (1). Khoảng 50% phụ nữ nhiễm GBS sẽ lây truyền vi khuẩn cho con, thường trong quá trình chuyển dạ hoặc sau khi vỡ ối (2).
Biện pháp bảo vệ chính chống lại nhiễm khuẩn GBS khởi phát sớm là sử dụng kháng sinh dự phòng cho mẹ trong quá trình chuyển dạ và sinh nở. Xác định những bệnh nhân được điều trị kháng sinh dự phòng là một khía cạnh quan trọng của chăm sóc trước sinh thường quy (2), (3).
Vắc xin GBS hứa hẹn chống lại nhiễm khuẩn GBS khởi phát sớm, nhưng hiện vẫn còn đang nghiên cứu và chưa có vắc xin GBS nào được chấp thuận trên thị trường (3).
Cần đánh giá khi khám thai để xác định loại KSDP sẽ dùng khi chuyển dạ |
1. Sử dụng kháng sinh dự phòng (2)
2. Nguy cơ bị sốc phản vệ hoặc phản ứng nghiêm trọng không qua trung gian Ig-E khi dị ứng với Penicillin (2)
Nguy cơ phản ứng phản vệ |
Định nghĩa |
(a) Nguy cơ thấp hoặc không rõ nguy cơ |
- Các triệu chứng không đặc hiệu cho dị ứng (đau dạ dày ruột, đau đầu, viêm âm đạo do nấm) - Ban dát sần (ban dạng sởi) không có triệu chứng toàn thân, thường xảy ra vài ngày sau khi tiếp xúc ban đầu với penicillin và chỉ giới hạn ở da (không xảy ra ở niêm mạc, lòng bàn tay, bàn chân). Có thể bị ngứa nhưng không nổi mề đay. - Ngứa không phát ban - Tiền sử gia đình dị ứng với penicillin nhưng không có tiền sử cá nhân dị ứng với penicillin - Bệnh nhân có tiền sử dị ứng nhưng không nhớ bất kỳ triệu chứng hay phương pháp điều trị nào để báo cáo. |
(b) Nguy cơ cao |
- Nguy cơ cao sốc phản vệ: tiền sử liên quan đến trung gian IgE (phản ứng phản vệ qua trung gian IgE và thường xảy ra trong vòng 1-6 giờ sau khi tiếp xúc với Penicillin): phát ban ngứa, mày đay, đỏ bừng mặt, hạ huyết áp, phù mạch, suy hô hấp hoặc sốc phản vệ. Một số nơi đã thực hiện xét nghiệm dị ứng Penicillin ở phụ nữ mang thai có tiền sử gợi ý phản ứng liên quan qua trung gian Ig-E như mày đay, mày đay xuất hiện hơn 10 năm trước hoặc phát ban ngứa dữ dội. - Phản ứng tái phát, phản ứng với nhiều kháng sinh nhóm beta-lactam, hoặc xét nghiệm có phản ứng da với Penicillin dương tính. - Nguy cơ cao phản ứng nghiêm trọng không qua trung gian Ig-E: phản ứng khởi phát muộn hiếm gặp qua da hay toàn thân như tăng bạch cầu ái toan và các triệu chứng toàn thân/hội chứng quá mẫn do thuốc, hội chứng Stevens-Johnson, hoặc hoại tử thượng bì nhiễm độc. Các phản ứng này thường xảy ra trong vòng vài ngày đến vài tuần sau khi điều trị với Penicillin. |
Tài liệu tham khảo
1. Quyết định 380/QĐ-BVTD ngày 06/3/2020 của Bệnh viện Từ Dũ ban hành phác đồ điều trị Liên cầu khuẩn nhóm B và thai kỳ.
2. ACOG (2020), Prevention of Group B Streptococcal Early-Onset Disease in Newborns, Number 797.
3. Donders, G.G., Halperin, S.A., Devlieger, R., Baker, S., Forte, P., Wittke, F., Slobod, K.S. and Dull, P.M., (2016), Maternal immunization with an investigational trivalent group B streptococcal vaccine: a randomized controlled trial, Obstetrics & Gynecology, 127(2), pp.213-221.
Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng (RCT), BLING III cung cấp bằng chứng việc sử dụng truyền liên tục (CI) so với truyền ngắt quãng piperacillin/tazobactam và meropenem trên bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Điều này được củng cố bởi một đánh giá tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp (SRMA) của 18 RCT về CI hoặc truyền kéo dài (EI) (thời gian từ 3–4 giờ) các kháng sinh beta-lactam. Thách thức hiện nay là chuyển đổi CI như một tiêu chuẩn chăm sóc cho bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Các cân nhắc chính bao gồm các vấn đề sau:
Các nhà nghiên cứu thuộc Đại học Alabama tại Birmingham, đã tiến hành phân tích dữ liệu thứ cấp trên đối tượng phụ nữ tăng huyết áp mạn tính trong thai kỳ, so sánh với phương pháp điều trị chính. Tăng huyết áp mạn tính nhẹ trong nghiên cứu được định nghĩa là huyết áp 140-159/90-104 mmHg trước 20 tuần của thai kỳ.
Nhiễm trùng huyết – sepsis - vẫn là một trong những nguyên nhân gây tử vong lớn nhất trên thế giới, Tổ chức Y tế Thế giới ước tính 11 triệu người tử vong mỗi năm do tình trạng này. Các yếu tố chính của việc quản lý sepsis là chẩn đoán sớm, liệu pháp kháng sinh kinh nghiệm sớm và phù hợp, với biện pháp kiểm soát nguồn gây bệnh thích hợp và bảo tồn chức năng các cơ quan.
Sự ra đời của vắc-xin giúp chúng ta chủ động phòng chống các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm. Tổ chức y tế thế giới ước tính chương trình tiêm chủng hiện nay giúp ngăn ngừa 3,5-5 triệu ca tử vong mỗi năm do các bệnh như bạch hầu, uốn ván, ho gà, cúm và sởi [2].
Phòng ngừa suy nhược, mệt mỏi, đau nhức:
Hoạt động mỗi ngày đi bộ ngắn, tập các bài tập nhẹ nhàng. Giữ tinh thần ổn định
Chế độ ăn hợp lý trao đổi thêm với bác sĩ về dinh dưỡng bổ sung (thực phẩm giàu protein như thịt, cá, phô mai, sữa chua...). Uống nhiều nước, trừ khi có hướng dẫn khác.
Chườm khăn lạnh nếu có nhức mỏi, đau cơ.