Một số lưu ý về phản ứng có hại của kháng sinh
DS. Huỳnh Thị Hồng Gấm
Khoa Dược - BV Từ Dũ
Theo WHO 2000, Phản ứng có hại của thuốc (ADR) được định nghĩa là phản ứng gây hại đáng kể hoặc bất lợi xảy ra sau một can thiệp có liên quan đến việc sử dụng thuốc. Một phản ứng có hại có thể là cơ sở để dự đoán được mức độ nguy hại của việc sử dụng thuốc này để phòng, điều trị, điều chỉnh liều hoặc ngừng thuốc.
ADR gây hậu quả, tác động kinh tế và tác động sức khỏe cộng đồng. Theo thống kê, ADR là nguyên nhân thứ 4-6 gây tử vong tại Mỹ[3]. ADR chiếm 3-7% tổng số bệnh nhân nhập viện. Có đến 19% bệnh nhân nội trú gặp ADR[2]. ADR kéo dài thời gian điều trị và làm giảm tuân thủ điều trị. Tuy nhiên, 70% ADR có thể phòng tránh được[4].
Dưới đây là một số phản ứng có hại và dị ứng với kháng sinh cần lưu ý[1]
1.Phản ứng với Penicillin
ADR xảy ra khoảng 1-10 % bệnh nhân điều trị với Penicillin. Trong đó, phản ứng phản vệ có tần suất là 0,01 – 0,05% (1-5/10.000 lượt điều trị, tỉ lệ tử vong là 0,002%. Nổi mề đay chiếm 4,5%, xuất độ bệnh mới khoảng 10% gồm cả những bệnh nhân nổi ban đỏ trên da sau khi dùng Penicillin.
a. Phân loại phản ứng dị ứng với Penicillin: Phản ứng tức thì, phản ứng nhanh và phản ứng muộn.
- Phản ứng tức thì là phản ứng nguy hiểm nhất, xảy ra từ 2-30 phút sau điều trị với Penicillin hoặc điều trị với các kháng sinh khác. Phản ứng tức thì dẫn đến biểu hiện lâm sàng là phản ứng phản vệ: hạ huyết áp có thể đưa đến choáng và tử vong và / hoặc nổi mề đay, thở rít và viêm mũi cũng thường xảy ra.
- Phản ứng dị ứng nhanh: xảy ra 1-72 giờ sau khi dùng thuốc, thường không đe dọa tính mạng bệnh nhân trừ khi có co thắt, phù thanh quản, có thể gây tử vong vì ngạt.
- Phản ứng muộn: thường gặp nhất, chiếm khoảng 80-90% tất cả các phản ứng. Xuất hiện nhiều ngày hoặc nhiều tuần sau khi điều trị Penicillin và thường gặp nhất là phát ban kiểu dạng sởi.
b. Những yếu tố làm tăng nguy cơ của phản ứng tăng mẫn cảm với Penicillin:
- Tuổi: 20-49 có nguy cơ dị ứng Penicillin cao nhất.
- Bệnh nhân đang mắc các bệnh hiện tại sau đây: nhiễm virus Epstein Barr, leukemia dòng lympho cấp hoặc nhiễm cytomegalovirus.
- Đưa thuốc bằng đường tiêm có nguy cơ phản ứng tăng mẫn cảm cao hơn đường uống. Điều trị liều cao- điều trị thuốc gián đoạn có nguy cơ cao hơn so với liều dùng duy nhất tác dụng kéo dài.
- Tiền sử dị ứng với Penicillin còn có nguy cơ cao tăng phản ứng mẫn cảm khi tiếp xúc với nhóm thuốc kháng sinh không phải beta- lactam.
- Phản ứng nghiêm trọng nhất hoặc tử vong vẫn có thể xảy ra với những bệnh nhân không có tiền sử dị ứng với Penicillin
Dưới đây là một số phản ứng dị ứng của Penicillin và các Penicillin bán tổng hợp
Loại phản ứng |
Dấu hiệu |
Phản ứng dị ứng tức thì |
Đỏ da, ngứa; nổi mề đay; phù mạch; thở rít, viêm mũi; hạ huyết áp, choáng. |
Phản ứng dị ứng nhanh |
Đỏ da hoặc ngứa; nổi mề đay; phù mạch; phù thanh quản; thở rít, viêm mũi. |
Phản ứng dị ứng chậm |
Phát ban dạng sởi; nổi mề đay, phù mạch; nổi mề đay, đau khớp; bệnh huyết thanh. |
Phản ứng ít gặp |
Thiếu máu tán huyết miễn dịch; thâm nhiễm phổi do eosinophil; viêm thận mô kẽ; giảm bạch cầu hạt; giảm tiểu cầu; sốt do thuốc; viêm mạch máu do tăng mẫn cảm; hồng ban đa dạng; lupus ban đỏ do thuốc. |
c. Phản ứng với nhóm có cấu trúc vòng beta - lactam
- Bệnh nhân dị ứng với Penicillin có khả năng dị ứng với các Penicillin bán tổng hợp khác. Ampicillin và Amoxicillin có tỉ lệ nổi rash cao hơn Penicillin.
- Bệnh nhân có tiền sử dị ứng với Penicillin có phản ứng với Cephalosporin 4 lần cao hơn so với nhóm bệnh nhân không dị ứng với Penicillin.
- Imipenem không nên sử dụng ở bệnh nhân có tiền sử hay có nghi ngờ dị ứng với Penicillin. Aztreonam có thể dùng cho bệnh nhân dị ứng với Penicillin, nhưng cần thận trọng khi dùng lặp lại nhiều lần.
2. Phản ứng với nhóm Aminoglycosidd
Nhóm Aminoglycosid có chỉ số điều trị hẹp. Hai độc tính thường gặp là độc tính cho thận và cho tai. Ngoài ra, kháng sinh nhóm này còn làm suy giảm thần kinh cơ do giảm hoạt tính của Acetylcholin ở màng sau synapse, có thể gây ra suy hô hấp, tuy hiếm gặp.
3. Phản ứng với nhóm Vancomycin
- Phản ứng có hại thường gặp “hội chứng người đỏ” đặc trưng là ngứa, đỏ da và hồng ban ở mặt, đầu.
- Phản ứng giống phản vệ thường gặp sau liều đầu, tùy thuộc vào liều lượng và thời gian truyền, do Vancomycin gây giải phóng Histamin.
- Vancomycin và Aminoglycosid kết hợp làm tăng độc tính cho thận.
- Độc tính cho tai của Vancomycin cũng ít gặp khi đã giảm liều thích hợp ở bệnh nhân suy thận.
- Các phản ứng có hại khác ít gặp gồm : giảm bạch cầu, nổi ban ở da.
4. Phản ứng với nhóm Macrolid
Phản ứng nghiêm trọng rất hiếm gặp. Một số phản ứng thường gặp trên đường tiêu hóa: nóng rát, buồn nôn, nôn, tùy thuộc liều sử dụng, có thể đến 50% ở các bệnh nhân điều trị, đôi khi cần phải ngưng thuốc sớm…
5. Phản ứng với nhóm Lincosamid
- Thường gặp với Clindamycin: rối loạn tiêu hóa, tiêu chảy xuất hiện trên 20% bệnh nhân và viêm đại tràng giả mạc khoảng 0,01-10%.
- Những phản ứng khác: phát ban, sốt, độc tính cho gan, giảm bạch cầu hạt cũng hiếm gặp.
6. Phản ứng với nhóm Fluoroquinolon
- ADR thường gặp : nôn, tiêu chảy (<5%), mất ngủ và choáng váng (<5%).
- Độc tính với ánh sáng có thể nghiêm trọng nhất là với Lomefloxacin.
- Ít gặp những phản ứng giống phản vệ, độc tính cho gan, thận.
- Không được chỉ định cho người dưới 18 tuổi vì có thể làm tổn thương sụn và ảnh hưởng đến sự phát triển của khớp.
7. Phản ứng với nhóm Metronidazol
- Nhóm Metronidazole có thể gây nôn, viêm đại tràng giả mạc, viêm niêm mạc miệng, viêm lưỡi (hiếm gặp).
- Đã có báo cáo về xuất hiện bệnh thần kinh ngoại biên, co giật và bệnh não khi dùng nhóm Metronidazol liều cao và trên bệnh nhân suy gan. Nhóm Metronidazol có thể gây đột biến gien và sinh u.
Dưới đây là một số khuyến nghị thực hành nhằm tối thiểu hóa ADR, hướng đến sử dụng thuốc an toàn và hợp lí, nâng cao chăm sóc sức khỏe cộng đồng [1]:
- Dùng ít thuốc nếu có thể
- Dùng thuốc nào mà bạn biết rõ nhất
- Không thay đổi trị liệu từ thuốc đã biết sang thuốc chưa biết với lý do không hợp lý. Nếu quyết định dùng thuốc mới, hãy biết rõ nó.
- Sử dụng các thông tin sẵn có về thuốc.
- Chú ý những thuốc có thể gây tương tác thuốc (thuốc chống đông, hạ đường huyết, thuốc tác động lên hệ thần kinh trung ương)
- Cảnh giác sự tương tác thuốc với thực phẩm, rượu và các hóa chất dùng trong nhà
- Xem lại các thuốc dùng cho bệnh nhân đều đặn
- Đặc biệt cẩn thận với trẻ em, người già, phụ nữ có thai, những bệnh nhân có tổn thương gan, thận…
- Nếu bệnh nhân có những dấu hiệu hoặc triệu chứng không giải thích được hãy nghĩ đến ADR
- Nếu nghi ngờ là ADR, xem xét việc ngưng thuốc hoặc giảm liều… và thông báo đến cơ quan có trách nhiệm.
Tài liệu tham khảo:
- Trần Quang Bính. Phản ứng thuốc có hại và dị ứng với kháng sinh.
- Davies et al, J Clin Pharm Ther 2006.
- Lazarou et al, JAMA 1998.
- Pirmohamed et al, BMJ 2006.
Trong giai đoạn năm 2018-2021, Mạng lưới An toàn Chăm sóc Sức khỏe Quốc gia (NHSN) đã báo cáo rằng 0,4% (n = 1.951) các ca nhiễm trùng mắc phải tại bệnh viện (HAI) ở Hoa Kỳ nguyên nhân do Acinetobacter spp. gây ra. Trong số này có 28-45% không nhạy cảm với kháng sinh carbapenem (tức là trung gian hoặc đề kháng).
Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng (RCT), BLING III cung cấp bằng chứng việc sử dụng truyền liên tục (CI) so với truyền ngắt quãng piperacillin/tazobactam và meropenem trên bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Điều này được củng cố bởi một đánh giá tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp (SRMA) của 18 RCT về CI hoặc truyền kéo dài (EI) (thời gian từ 3–4 giờ) các kháng sinh beta-lactam. Thách thức hiện nay là chuyển đổi CI như một tiêu chuẩn chăm sóc cho bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Các cân nhắc chính bao gồm các vấn đề sau:
Các nhà nghiên cứu thuộc Đại học Alabama tại Birmingham, đã tiến hành phân tích dữ liệu thứ cấp trên đối tượng phụ nữ tăng huyết áp mạn tính trong thai kỳ, so sánh với phương pháp điều trị chính. Tăng huyết áp mạn tính nhẹ trong nghiên cứu được định nghĩa là huyết áp 140-159/90-104 mmHg trước 20 tuần của thai kỳ.
Nhiễm trùng huyết – sepsis - vẫn là một trong những nguyên nhân gây tử vong lớn nhất trên thế giới, Tổ chức Y tế Thế giới ước tính 11 triệu người tử vong mỗi năm do tình trạng này. Các yếu tố chính của việc quản lý sepsis là chẩn đoán sớm, liệu pháp kháng sinh kinh nghiệm sớm và phù hợp, với biện pháp kiểm soát nguồn gây bệnh thích hợp và bảo tồn chức năng các cơ quan.
Sự ra đời của vắc-xin giúp chúng ta chủ động phòng chống các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm. Tổ chức y tế thế giới ước tính chương trình tiêm chủng hiện nay giúp ngăn ngừa 3,5-5 triệu ca tử vong mỗi năm do các bệnh như bạch hầu, uốn ván, ho gà, cúm và sởi [2].
Phòng ngừa suy nhược, mệt mỏi, đau nhức:
Hoạt động mỗi ngày đi bộ ngắn, tập các bài tập nhẹ nhàng. Giữ tinh thần ổn định
Chế độ ăn hợp lý trao đổi thêm với bác sĩ về dinh dưỡng bổ sung (thực phẩm giàu protein như thịt, cá, phô mai, sữa chua...). Uống nhiều nước, trừ khi có hướng dẫn khác.
Chườm khăn lạnh nếu có nhức mỏi, đau cơ.