Nghiên cứu cho thấy các biện pháp tránh thai nội tiết tố có thể ảnh hưởng đến sự phát triển trí não của thanh thiếu niên
DS. Phạm Bình Bảo Ngọc (lược dịch)
Nghiên cứu trước đây đã chỉ ra mối liên hệ giữa việc sử dụng thuốc tránh thai nội tiết sớm ở tuổi vị thành niên với nguy cơ trầm cảm ở tuổi trưởng thành.
Mặc dù các biện pháp tránh thai nội tiết tố có thể là một lựa chọn ngừa thai hiệu quả cho thanh thiếu niên, nhưng các nhà nghiên cứu từ Đại học Bang Ohio (Mỹ) nhận thấy tác động của chúng đối với sự phát triển của não bộ, bao gồm việc tăng mức độ hormone căng thẳng corticosterone.
Nghiên cứu trên những con chuột non cho thấy mối liên kết giữa các hormone tổng hợp có trong thuốc tránh thai (dạng viên uống, miếng dán và thuốc tiêm) với sự rối loạn khi truyền tín hiệu giữa các tế bào ở vỏ não trước trán. Vùng não này tiếp tục phát triển trong suốt thời niên thiếu. So với những con chuột đối chứng, những động vật được sử dụng thuốc tránh thai nội tiết sản sinh ra lượng corticosterone cao hơn, tương tự như cortisol ở người.
Nhà nghiên cứu cao cấp Benedetta Leuner, phó giáo sư tâm lý học tại bang Ohio, cho biết: “Kiểm soát sinh sản có ảnh hưởng tích cực đến sức khỏe và quyền tự chủ của phụ nữ - vì vậy không phải là chúng tôi khuyên thanh thiếu niên không nên dùng biện pháp tránh thai nội tiết tố” “Điều cần thiết là được thông báo về tác động của các hormone tổng hợp đến trí não để chúng ta có thể đưa ra quyết định sáng suốt - và theo dõi nếu có bất kì rruit ro nào xảy ra. Sau đó, nếu bạn quyết định sử dụng biện pháp tránh thai nội tiết tố, bạn sẽ chú ý nhiều hơn đến các dấu hiệu cảnh báo về bất kỳ tác dụng phụ nào có thể xảy ra liên quan đến thay đổi tâm trạng.”
Mặc dù các phương pháp tránh thai bằng nội tiết tố rất phổ biến, Kathryn Lenz - đồng tác giả nghiên cứu lưu ý rằng dữ liệu còn hạn chế về cách các phương pháp này ảnh hưởng đến não bộ và hành vi của thanh thiếu niên. Các phương pháp ngừa thai nội tiết tố hoạt động bằng cách ngăn buồng trứng sản xuất hormone ở mức cần thiết để sản xuất trứng và làm cho niêm mạc tử cung trở nên không thích hợp để trứng làm tổ.
Lenz cho biết trong một thông cáo báo chí: “Tuổi vị thành niên là giai đoạn có sự thay đổi mạnh mẽ ở não bộ và nội tiết tố, nhưng chưa được nghiên cứu kỹ lưỡng và chúng ta thực sự chưa hiểu rõ”.
Nhóm nghiên cứu đã sử dụng kết hợp estrogen tổng hợp và progesterone (thường được tìm thấy trong các biện pháp tránh thai nội tiết tố) cho chuột cái trong 3 tuần, bắt đầu khoảng 1 tháng sau khi chúng được sinh ra - độ tuổi tương đương với tuổi vị thành niên sớm ở người. Các nhà nghiên cứu xác nhận rằng các loại thuốc đã làm gián đoạn chu kỳ sinh sản của động vật.
Các mẫu máu cho thấy những con chuột được thử nghiệm sản xuất nhiều corticosterone hơn những con đối chứng, đó là dấu hiệu chúng bị căng thẳng. Sau một thời gian hồi phục, mức độ corticosterone của chuột được điều trị vẫn ở mức cao. Các tuyến thượng thận cũng lớn hơn, điều này cho thấy việc sản xuất hormone gây căng thẳng của chúng luôn cao hơn so với động vật đối chứng.
Phân tích các dấu hiệu kích hoạt gen ở vỏ não trước trán của chuột cho thấy sự suy giảm các khớp thần kinh kích thích của não chuột được thử nghiệm so với đối chứng, nhưng không có thay đổi đối với các khớp thần kinh ức chế. Điều này có thể tạo ra sự mất cân bằng các kiểu tín hiệu bình thường và dẫn đến thay đổi hành vi.
Trong nghiên cứu trước đây, việc mất đi các khớp thần kinh kích thích ở vỏ não trước trán có liên quan đến căng thẳng mãn tính và trầm cảm.
Các nghiên cứu bổ sung sẽ tập trung vào tác động của các biện pháp tránh thai nội tiết tố lên não giữa tuổi dậy thì và cuối tuổi vị thành niên, đây là thời điểm khó khăn để nghiên cứu vì bộ não đang phát triển và thay đổi liên tục. Người ta vẫn còn nghi ngờ về lý do đằng sau tác dụng của những loại thuốc này.
“Đây là những hormone tổng hợp, vậy chúng ảnh hưởng đến não do đặc tính tổng hợp của chúng hay vì chúng đang ngăn chặn sản xuất các hormone tự nhiên?” Lenz nói trong một thông cáo báo chí. “Đó là một câu hỏi khó trả lời nhưng quan trọng.”
Tài liệu tham khảo:
https://www.pharmacytimes.com/view/study-shows-hormonal-contraceptives-may-affect-adolescent-brain-development. Updated Nov 29, 2022
Acetaminophen (paracetamol) đã được sử dụng để hạ sốt và giảm đau từ nhẹ đến trung bình. Thuốc có sẵn ở dạng đơn chất hoặc kết hợp với các thuốc khác để điều trị các triệu chứng cảm lạnh, cúm, đau đầu và viêm xương khớp. Tên thương mại phổ biến là Tylenol. Theo Tạp chí Wall Street Journal đưa tin, Bộ trưởng Y tế Hoa Kỳ dự định thông tin về mối liên quan giữa chứng tự kỷ và việc phơi nhiễm với thuốc giảm đau và hạ sốt Tylenol trước khi sinh, như sau:
Tiêm chủng cho mẹ giúp bảo vệ cả mẹ và thai nhi khỏi một số bệnh nhiễm trùng. Lý tưởng nhất là tiêm chủng trước khi thụ thai, nhưng trong một số trường hợp, việc tiêm chủng trong thai kỳ cũng được chỉ định.
Nhiều bằng chứng cho thấy rằng, việc sử dụng kháng sinh ở bệnh nhân tiên lượng nặng bị suy thận cấp (STC) thường không đạt được mục tiêu dược lực học và tỉ lệ tử vong cao liên quan đến nhiễm trùng. Do đó, bài viết này đánh giá những thay đổi thông số về dược động học và dược lực học trên bệnh nhân nặng có STC và đề xuất những giải pháp để có thể tối ưu liều dùng kháng sinh trên những bệnh nhân này.
Trong bản dự thảo cuối cùng, Viện Y tế và Chất lượng Điều trị Quốc gia Anh (NICE) cho biết relugolix-estradiol-norethisterone là một lựa chọn để điều trị các triệu chứng lạc nội mạc tử cung ở những người phụ nữ trưởng thành đang trong độ tuổi sinh sản, nhưng không đáp ứng với phương pháp điều trị nội khoa hoặc phẫu thuật trước đó.
Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC), có khoảng 10% bệnh nhân tại Mỹ được báo cáo bị dị ứng penicillin. Tuy nhiên, dưới 1% bị dị ứng qua trung gian IgE (loại 1) và các nhà nghiên cứu lưu ý rằng, khoảng 80% bệnh nhân này sẽ mất độ nhạy cảm sau 10 năm. Hơn nữa, CDC khuyến nghị cần xác định những bệnh nhân không thực sự dị ứng penicillin để giảm việc sử dụng kháng sinh phổ rộng không cần thiết. Phản ứng chéo giữa penicillin và cephalosporinlà rất hiếm, nhưng nhiều bác sĩ tránh kê đơn cephalosporin cho bệnh nhân bị dị ứng penicillin, dẫn đến tăng cường sử dụng các loại kháng sinh khác như là quinolon, macrolid, clindamycin, carbapenem và vancomycin, thường gặp nhiều tác dụng phụ hơn, tăng chi phí chăm sóc sức khỏe và góp phần vào tình trạng đề kháng kháng sinh
Độc tính trên thận do thuốc là nguyên nhân phổ biến gây ra tổn thương thận cấp tính (AKI) và kháng sinh (KS) là một trong những nhóm thuốc lớn nhất liên quan đến AKI. Cơ chế gây độc tính trên thận do KS bao gồm tổn thương cầu thận, tổn thương hoặc rối loạn chức năng ống thận, tắc nghẽn ống lượn xa do trụ niệu và viêm thận kẽ cấp tính (AIN) do phản ứng quá mẫn loại IV (loại chậm). Các biểu hiện lâm sàng của độc tính trên thận do KS bao gồm hoại tử ống thận cấp (ATN), AIN và hội chứng Fanconi.