Nghiên cứu mối liên quan giữa việc sử dụng kháng sinh khi mang thai và dị ứng đường hô hấp ở trẻ
DS. Dương Thị Thanh Sương
Khoa Dược
Bệnh dị ứng ở trẻ gia tăng và thường kèm theo vấn đề sức khỏe khác (béo phì, rối loạn giấc ngủ,…) làm giảm chất lượng cuộc sống. Một nghiên cứu đã chỉ ra rằng, ở trẻ mắc các bệnh về đường hô hấp thường có hệ vi sinh vật mũi họng kém đa dạng hơn trẻ có đường hô hấp bình thường. Hơn nữa, sự xâm nhập của vi khuẩn vào đường hô hấp ở trẻ sơ sinh có liên quan đến bệnh hen suyễn ở trẻ khi lớn.
Để đánh giá mối liên quan giữa việc người mẹ sử dụng kháng sinh trong quá trình mang thai với các bệnh dị ứng ở trẻ em, một nghiên cứu đoàn hệ với quy mô lớn tại Nhật Bản đã được thực hiện với khoảng 78.000 phụ nữ mang thai và con của họ từ 0 đến 3 tuổi.
Kết quả của nghiên cứu chỉ ra rằng việc sử dụng kháng sinh khi mang thai làm tăng nguy cơ dị ứng đường hô hấp ở trẻ em, đặc biệt là hen suyễn, viêm mũi dị ứng và thở khò khè. Ngoài ra, kết quả cho thấy không có mối liên quan nào giữa việc sử dụng kháng sinh ở mẹ làm tăng nguy cơ dị ứng thức ăn, viêm da dị ứng và bệnh chàm da.
Đồng thời, nghiên cứu cũng cho thấy nguy cơ dị ứng hô hấp ở trẻ do sử dụng kháng sinh trong thai kỳ của mẹ không bị ảnh hưởng bởi thời gian sử dụng kháng sinh, giới tính của trẻ và tiền sử dị ứng của mẹ. Ngoại trừ viêm mũi dị ứng có liên quan đến tiền sử dị ứng.
Kết quả của nghiên cứu này phù hợp với một tổng quan hệ thống bao gồm 12 nghiên cứu lớn nhỏ đã được công bố trước đó: bệnh hen suyễn và thở khò khè ở trẻ em có liên quan đến việc sử dụng kháng sinh ở mẹ trong quá trình mang thai.
Tuy nhiên, nghiên cứu cũng có nhiều mặt hạn chế, bao gồm: không đủ dữ liệu để đánh giá ảnh hưởng của loại, liều lượng và cách sử dụng kháng sinh; dị ứng ở trẻ được báo cáo bởi người chăm sóc có thể dẫn đến sai lệch, cũng như không có khả năng chẩn đoán chính xác hen suyễn ở trẻ dưới 3 tuổi; 18,6% phụ nữ sử dụng kháng sinh trong quá trình mang thai được ghi nhận dựa vào bảng câu hỏi, do đó có thể sai lệch thông tin do trí nhớ, chủ quan của người được khảo sát.
Tóm lại, việc sử dụng kháng sinh khi mang thai có liên quan đến việc tăng nguy cơ mắc bệnh hen suyễn, thở khò khè, viêm mũi dị ứng và các bệnh dị ứng khác ở trẻ dưới 3 tuổi, ngoại trừ dị ứng thức ăn, viêm da dị ứng và chàm da. Tuy nhiên, vẫn có những trường hợp cần thiết sử dụng kháng sinh trong thai kỳ. Do đó, phụ nữ mang thai cần đảm bảo sử dụng kháng sinh hợp lý và theo dõi trẻ sau sinh.
Tài liệu tham khảo:
- https://www.pharmacytimes.com/view/study-antibiotic-exposure-during-pregnancy-associated-with-increased-risk-of-childhood-respiratory-allergies (Tham khảo ngày 08/11/2023)
- Okoshi, K, Sakurai, K, Yamamoto, M. Maternal antibiotic exposure and childhood allergies: The Japan Environment and Children’s Study. JACI: Global. 2023;2(4). doi:10.1016/j.jacig.2023.100137
Độc tính trên thận do thuốc là nguyên nhân phổ biến gây ra tổn thương thận cấp tính (AKI) và kháng sinh (KS) là một trong những nhóm thuốc lớn nhất liên quan đến AKI. Cơ chế gây độc tính trên thận do KS bao gồm tổn thương cầu thận, tổn thương hoặc rối loạn chức năng ống thận, tắc nghẽn ống lượn xa do trụ niệu và viêm thận kẽ cấp tính (AIN) do phản ứng quá mẫn loại IV (loại chậm). Các biểu hiện lâm sàng của độc tính trên thận do KS bao gồm hoại tử ống thận cấp (ATN), AIN và hội chứng Fanconi.
Trong 6 tháng đầu năm 2025, Bệnh viện Từ Dũ ghi nhận 204 báo cáo ADR, tăng 1,3 lần so với cùng kỳ năm 2024 (160 báo cáo).
Việc sử dụng hệ thống phóng thích Levonorgestrel trong tử cung (LNG-IUS: Levonorgestrel-releasing intrauterine system) có liên quan đến tăng nguy cơ ung thư vú. Một nghiên cứu ở Đan Mạch ghi nhận 14 trường hợp ung thư vú trên 10.000 phụ nữ tránh thai bằng LNG-IUS so với phụ nữ tránh thai không dùng nội tiết.
Theo kết quả của một nghiên cứu trên JAMA Network Open, tiêm vắc-xin cúm không liên quan đến việc tăng nguy cơ mắc các kết quả bất lợi trong thời kỳ chu sinh đối với những người mang thai liên tiếp. Các tác giả nghiên cứu cho biết những phát hiện này ủng hộ các khuyến nghị hiện tại cho những người mang thai hoặc những người có thể mang thai trong mùa cúm.
Staphylococcus aureus, một loại vi khuẩn gram dương, là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong do nhiễm trùng huyết trên toàn thế giới, với tỷ lệ tử vong từ 15% đến 30% và ước tính có 300.000 ca tử vong mỗi năm.
Các loài thuộc chi Candida là một phần của hệ vi sinh vật thường trú trong âm đạo có khoảng 25% ở phụ nữ, do vậy việc phát hiện nấm không đủ để chẩn đoán bệnh. Ước tính có 75% phụ nữ bị nhiễm nấm candida âm đạo ít nhất một lần trong đời. Nồng độ estrogen và tăng sản xuất glycogen ở âm đạo, tình trạng này xảy ra thường gặp và nghiêm trọng hơn trong thai kỳ. Trong thời kỳ mang thai, bệnh có liên quan đến những kết quả bất lợi trong sản khoa như vỡ ối sớm, chuyển dạ sớm, viêm màng ối, nhiễm nấm candida da ở trẻ sơ sinh và nhiễm trùng hậu sản 1. Bệnh viêm âm hộ-âm đạo do nấm candida là một trong những nguyên nhân phổ biến nhất có triệu chứng gây ngứa và tiết dịch âm đạo. Biểu hiện của bệnh là tình trạng viêm thường gặp ở các loài nấm Candida với các triệu chứng là ngứa và viêm đỏ.