Nguy cơ quá liều thuốc uống giọt Vitamin D ở trẻ em
Theo Linda M. Katz, M.D., M.P.H., trưởng bộ phận y khoa của Trung tâm An toàn Thực phẩm và Dinh dưỡng Ứng dụng của FDA, trẻ em không nên dùng vượt quá liều khuyến cáo hàng ngày. “Cha mẹ và người chăm sóc trẻ chỉ nên sử dụng ống nhỏ giọt kèm theo chế phẩm vitamin D đã mua.”
Vitamin D giúp hấp thu canxi ở ruột và đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển xương vững chắc. Các chế phẩm bổ sung vitamin D được khuyến cáo dùng cho một số trẻ em, nhất là các trẻ bú sữa mẹ - bởi vì thiếu vitamin này có thể gây mềm, biến dạng xương, thường thấy ở bệnh còi xương.
Tuy nhiên, thừa vitamin D có thể gây buồn nôn, ói mửa, chán ăn, khát nhiều, đa niệu, táo bón, đau bụng, yếu cơ, đau cơ và khớp, lẫn lộn, mệt mỏi, cũng như các hậu quả nghiêm trọng hơn như tổn thương thận.
Khuyến cáo của FDA
- Đảm bảo rằng trẻ không dùng quá 400 đơn vị quốc tế vitamin D mỗi ngày, đây là liều hàng ngày mà Viện Nhi Khoa của Mỹ đề nghị đối với trẻ bú sữa mẹ hoàn toàn hay một phần.
- Nên giữ sản phẩm kèm theo bao bì nguyên thủy để những người chăm sóc trẻ có thể đọc các thông tin cần thiết. Theo sát các hướng dẫn này để sử dụng ống nhỏ giọt đúng cách và lấy đúng liều lượng.
- Chỉ dùng ống nhỏ giọt đính kèm theo sản phẩm. Không sử dụng ống nhỏ giọt của loại thuốc khác.
- Các đơn vị đo lường trên ống nhỏ giọt phải rõ ràng và dễ hiểu, tương ứng với cách phân liều được ghi trong phần hướng dẫn dùng thuốc.
- Hãy liên hệ với nhân viên y tế trước khi cho trẻ uống thuốc nếu như không thể xác định được liều thuốc bằng ống nhỏ giọt.
- Nếu trẻ bú sữa ngoài hoàn toàn hoặc một phần, cần nói rõ cho thầy thuốc biết trước khi cho trẻ sử dụng chế phẩm bổ sung vitamin D.
Lưu ý: Bất cứ một loại thuốc hay thực phẩm bổ sung nào đều có thể gây phản ứng có hại và phải được sử dụng theo hướng dẫn của nhà sản xuất.
Theo
www.fda.gov/ForConsumers/ConsumerUpdates
Khoa Dược – BV Từ Dũ
Trẻ em không phải người lớn thu nhỏ. Các yếu tố dược động học ở trẻ sơ sinh thay đổi liên tục do sự phát triển nhanh về sinh lý. Tiêm tĩnh mạch thường được sử dụng trong điều trị cho trẻ sơ sinh, đặc biệt khi trẻ đang điều trị tại đơn vị chăm sóc tích cực. Khi tiêm tĩnh mạch, hiệu quả gần như tức thời. Hầu hết các loại thuốc tiêm tĩnh mạch cho trẻ sơ sinh có những yêu cầu riêng về độ pha loãng và/hoặc tốc độ truyền.
Trong giai đoạn năm 2018-2021, Mạng lưới An toàn Chăm sóc Sức khỏe Quốc gia (NHSN) đã báo cáo rằng 0,4% (n = 1.951) các ca nhiễm trùng mắc phải tại bệnh viện (HAI) ở Hoa Kỳ nguyên nhân do Acinetobacter spp. gây ra. Trong số này có 28-45% không nhạy cảm với kháng sinh carbapenem (tức là trung gian hoặc đề kháng).
Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng (RCT), BLING III cung cấp bằng chứng việc sử dụng truyền liên tục (CI) so với truyền ngắt quãng piperacillin/tazobactam và meropenem trên bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Điều này được củng cố bởi một đánh giá tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp (SRMA) của 18 RCT về CI hoặc truyền kéo dài (EI) (thời gian từ 3–4 giờ) các kháng sinh beta-lactam. Thách thức hiện nay là chuyển đổi CI như một tiêu chuẩn chăm sóc cho bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Các cân nhắc chính bao gồm các vấn đề sau:
Các nhà nghiên cứu thuộc Đại học Alabama tại Birmingham, đã tiến hành phân tích dữ liệu thứ cấp trên đối tượng phụ nữ tăng huyết áp mạn tính trong thai kỳ, so sánh với phương pháp điều trị chính. Tăng huyết áp mạn tính nhẹ trong nghiên cứu được định nghĩa là huyết áp 140-159/90-104 mmHg trước 20 tuần của thai kỳ.
Nội dung chi tiết vui lòng xem file đính kèm
Nhiễm trùng huyết – sepsis - vẫn là một trong những nguyên nhân gây tử vong lớn nhất trên thế giới, Tổ chức Y tế Thế giới ước tính 11 triệu người tử vong mỗi năm do tình trạng này. Các yếu tố chính của việc quản lý sepsis là chẩn đoán sớm, liệu pháp kháng sinh kinh nghiệm sớm và phù hợp, với biện pháp kiểm soát nguồn gây bệnh thích hợp và bảo tồn chức năng các cơ quan.