Nguy cơ quá liều thuốc uống giọt Vitamin D ở trẻ em
Theo Linda M. Katz, M.D., M.P.H., trưởng bộ phận y khoa của Trung tâm An toàn Thực phẩm và Dinh dưỡng Ứng dụng của FDA, trẻ em không nên dùng vượt quá liều khuyến cáo hàng ngày. “Cha mẹ và người chăm sóc trẻ chỉ nên sử dụng ống nhỏ giọt kèm theo chế phẩm vitamin D đã mua.”
Vitamin D giúp hấp thu canxi ở ruột và đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển xương vững chắc. Các chế phẩm bổ sung vitamin D được khuyến cáo dùng cho một số trẻ em, nhất là các trẻ bú sữa mẹ - bởi vì thiếu vitamin này có thể gây mềm, biến dạng xương, thường thấy ở bệnh còi xương.
Tuy nhiên, thừa vitamin D có thể gây buồn nôn, ói mửa, chán ăn, khát nhiều, đa niệu, táo bón, đau bụng, yếu cơ, đau cơ và khớp, lẫn lộn, mệt mỏi, cũng như các hậu quả nghiêm trọng hơn như tổn thương thận.
Khuyến cáo của FDA
- Đảm bảo rằng trẻ không dùng quá 400 đơn vị quốc tế vitamin D mỗi ngày, đây là liều hàng ngày mà Viện Nhi Khoa của Mỹ đề nghị đối với trẻ bú sữa mẹ hoàn toàn hay một phần.
- Nên giữ sản phẩm kèm theo bao bì nguyên thủy để những người chăm sóc trẻ có thể đọc các thông tin cần thiết. Theo sát các hướng dẫn này để sử dụng ống nhỏ giọt đúng cách và lấy đúng liều lượng.
- Chỉ dùng ống nhỏ giọt đính kèm theo sản phẩm. Không sử dụng ống nhỏ giọt của loại thuốc khác.
- Các đơn vị đo lường trên ống nhỏ giọt phải rõ ràng và dễ hiểu, tương ứng với cách phân liều được ghi trong phần hướng dẫn dùng thuốc.
- Hãy liên hệ với nhân viên y tế trước khi cho trẻ uống thuốc nếu như không thể xác định được liều thuốc bằng ống nhỏ giọt.
- Nếu trẻ bú sữa ngoài hoàn toàn hoặc một phần, cần nói rõ cho thầy thuốc biết trước khi cho trẻ sử dụng chế phẩm bổ sung vitamin D.
Lưu ý: Bất cứ một loại thuốc hay thực phẩm bổ sung nào đều có thể gây phản ứng có hại và phải được sử dụng theo hướng dẫn của nhà sản xuất.
Theo
www.fda.gov/ForConsumers/ConsumerUpdates
Khoa Dược – BV Từ Dũ
Acetaminophen (paracetamol) đã được sử dụng để hạ sốt và giảm đau từ nhẹ đến trung bình. Thuốc có sẵn ở dạng đơn chất hoặc kết hợp với các thuốc khác để điều trị các triệu chứng cảm lạnh, cúm, đau đầu và viêm xương khớp. Tên thương mại phổ biến là Tylenol. Theo Tạp chí Wall Street Journal đưa tin, Bộ trưởng Y tế Hoa Kỳ dự định thông tin về mối liên quan giữa chứng tự kỷ và việc phơi nhiễm với thuốc giảm đau và hạ sốt Tylenol trước khi sinh, như sau:
Tiêm chủng cho mẹ giúp bảo vệ cả mẹ và thai nhi khỏi một số bệnh nhiễm trùng. Lý tưởng nhất là tiêm chủng trước khi thụ thai, nhưng trong một số trường hợp, việc tiêm chủng trong thai kỳ cũng được chỉ định.
Nhiều bằng chứng cho thấy rằng, việc sử dụng kháng sinh ở bệnh nhân tiên lượng nặng bị suy thận cấp (STC) thường không đạt được mục tiêu dược lực học và tỉ lệ tử vong cao liên quan đến nhiễm trùng. Do đó, bài viết này đánh giá những thay đổi thông số về dược động học và dược lực học trên bệnh nhân nặng có STC và đề xuất những giải pháp để có thể tối ưu liều dùng kháng sinh trên những bệnh nhân này.
Trong bản dự thảo cuối cùng, Viện Y tế và Chất lượng Điều trị Quốc gia Anh (NICE) cho biết relugolix-estradiol-norethisterone là một lựa chọn để điều trị các triệu chứng lạc nội mạc tử cung ở những người phụ nữ trưởng thành đang trong độ tuổi sinh sản, nhưng không đáp ứng với phương pháp điều trị nội khoa hoặc phẫu thuật trước đó.
Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC), có khoảng 10% bệnh nhân tại Mỹ được báo cáo bị dị ứng penicillin. Tuy nhiên, dưới 1% bị dị ứng qua trung gian IgE (loại 1) và các nhà nghiên cứu lưu ý rằng, khoảng 80% bệnh nhân này sẽ mất độ nhạy cảm sau 10 năm. Hơn nữa, CDC khuyến nghị cần xác định những bệnh nhân không thực sự dị ứng penicillin để giảm việc sử dụng kháng sinh phổ rộng không cần thiết. Phản ứng chéo giữa penicillin và cephalosporinlà rất hiếm, nhưng nhiều bác sĩ tránh kê đơn cephalosporin cho bệnh nhân bị dị ứng penicillin, dẫn đến tăng cường sử dụng các loại kháng sinh khác như là quinolon, macrolid, clindamycin, carbapenem và vancomycin, thường gặp nhiều tác dụng phụ hơn, tăng chi phí chăm sóc sức khỏe và góp phần vào tình trạng đề kháng kháng sinh
Độc tính trên thận do thuốc là nguyên nhân phổ biến gây ra tổn thương thận cấp tính (AKI) và kháng sinh (KS) là một trong những nhóm thuốc lớn nhất liên quan đến AKI. Cơ chế gây độc tính trên thận do KS bao gồm tổn thương cầu thận, tổn thương hoặc rối loạn chức năng ống thận, tắc nghẽn ống lượn xa do trụ niệu và viêm thận kẽ cấp tính (AIN) do phản ứng quá mẫn loại IV (loại chậm). Các biểu hiện lâm sàng của độc tính trên thận do KS bao gồm hoại tử ống thận cấp (ATN), AIN và hội chứng Fanconi.