Nhiễm trùng huyết do MSSA: Beta-lactam hay Vancomycin?
Ds Thân Thị Mỹ Linh – Khoa Dược
(lược dịch)
Beta-lactam ưu thế hơn so với vancomycin để điều trị dứt điểm các bệnh nhiễm trùng máu gây ra bởi tụ cầu nhảy cảm methicillin (Methicillin susceptible Staphylococcus aureus - MSSA), theo một nghiên cứu hồi cứu lớn mới công bố. Tiến sĩ Jennifer S. McDanel từ Đại học Iowa và các đồng nghiệp công bố phát hiện của họ ngày 21/4/2015 trên tạp chí Clinical Infectious Diseases.
Các nghiên cứu trước đó tìm mối liên quan giữa vancomycin với các bệnh nhân có tiên lượng xấu như tái phát, điều trị thất bại và chết, hiệu quả của liệu pháp điều trị theo kinh nghiệm vẫn chưa rõ ràng. Vancomycin thường được kê theo kinh nghiệm cho các bệnh nhân nghi ngờ có nhiễm trùng máu do S. aureus vì nó có tác dụng chống lại cả chủng nhạy cảm methicillin và chủng kháng methicillin.
Tuy nhiên, đối với một bệnh nhân bị nhiễm MSSA, nhiều tổ chức y khoa trong đó có Hiệp hội các bệnh truyền nhiễm Hoa Kỳ (Infectious Diseases Society of America) khuyến cáo nên chuyển sang sử dụng beta-lactam (ví dụ: cefazolin) hoặc penicillin kháng Staphylococcus (ví dụ: nafcillin hoặc oxacillin) khi kết quả phân lập cho biết nhiễm trùng do MSSA.
Các nhà nghiên cứu đã phân tích dữ liệu 122 bệnh nhân cấy dương tính với MSSA tại một bệnh viện, những bệnh nhân này được chỉ định đơn trị một beta-lactam hoặc vancomycin, điều trị theo kinh nghiệm (n = 2659 và 3125) hoặc điều trị dứt điểm (n = 4698 và 935) trong thời gian 2003-2010.
Các nhà nghiên cứu xác định điều trị theo kinh nghiệm bắt đầu 2 ngày cho đến khi kết quả phân lập đầu tiên dương tính với MSSA; điều trị dứt điểm bắt đầu từ 4 đến 14 ngày sau khi kết quả phân lập đầu tiên dương tính với MSSA.
Sử dụng theo kinh nghiệm beta-lactam đơn trị liệu không hiệu quả trên tỉ lệ tử vong 30 ngày so với vancomycin (HR, 1,03; KTC 95% , 0,89-1,20). tuy nhiên, điều trị dứt điểm một beta-lactam so với vancomycin có liên quan với sự sụt giảm đáng kể 35% tỉ lệ tử vong trong 30 ngày (HR 0,65; 95% CI, 0,52-0,80), việc sử dụng cefazolin hoặc một penicilin kháng Staphylococcus lợi ích mang lại cao hơn nữa (HR 0,57; 95% CI, 0,46-0,71).
Các nhà nghiên cứu đã điều chỉnh các biến như tuổi, bệnh lý có lọc máu/bệnh lý thận giai đoạn cuối, điểm APACHE III và chỉ số Charlson Comorbidity. Các tác giả lưu ý rằng những phát hiện này có thể bị giới hạn bởi tuổi của dân số nghiên cứu (cao tuổi) và một số ca tử vong có thể không phải do MSSA.
Tài liệu tham khảo
- Bệnh viện đã thực hiện 378 báo cáo ADR, giảm 7,9% so với năm 2023 (408 báo cáo), tăng 14,2% so với năm 2022 (331 báo cáo).
- Số lượng báo cáo ADR ngoại trú là 18 báo cáo, giảm 3,6 lần so với năm 2023 (66 báo cáo).
- Bệnh viện Từ Dũ được Trung tâm DI&ADR quốc gia xếp hạng 8/991 cơ sở khám chữa bệnh có hoạt động theo dõi ADR hiệu quả trong báo cáo tổng kết ADR quốc gia vào tháng 9/2024.
Mirvetuximab soravtansine-gynx đã được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) phê duyệt điều trị cho bệnh nhân trưởng thành mắc ung thư biểu mô buồng trứng, ống dẫn trứng, hoặc ung thư phúc mạc nguyên phát dương tính với thụ thể folat alpha (FRα), kháng hóa trị, là những bệnh nhân đã trải qua 3 liệu trình điều trị trước đó. Theo các chuyên gia, bệnh nhân mắc các loại ung thư này thường được phát hiện khi bệnh đã ở giai đoạn muộn, trải qua phẫu thuật và sau đó được điều trị bằng phác đồ hóa trị có platinum nhưng có thể trở nên kháng thuốc.
Kháng sinh (KS) phổ rộng được xem như “thần dược” để điều trị các bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng hoặc đe dọa tính mạng khi tác nhân gây bệnh chưa được xác định. Mục đích sử dụng KS phổ rộng nhằm bao phủ nhiều loại tác nhân vi khuẩn gram dương và gram âm, bao gồm cả các tác nhân kháng thuốc trong khi chờ kết quả nuôi cấy. Tuy nhiên, việc sử dụng bừa bãi các KS phổ rộng cũ và mới đã góp phần đáng kể vào sự gia tăng tình trạng kháng kháng sinh (AMR) – một vấn đề sức khỏe toàn cầu đáng lưu ý.
Những dữ kiện của một nghiên cứu tiền lâm sàng cho thấy: đái tháo đường thai kỳ (ĐTĐTK) có thể làm tăng nguy cơ nhiễm trùng và tử vong ở trẻ sơ sinh nguyên nhân do liên cầu khuẩn nhóm B (GBS). Có nhiều lý do như: thay đổi hệ vi sinh vật âm đạo, giảm đáp ứng miễn dịch và quá trình điều hoà thích nghi của vi khuẩn.
Tiền sản giật là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong mẹ. Bệnh lý tiền sản giật có liên quan đến sự xâm lấn tế bào nuôi nhau thai và sự tái cấu trúc động mạch xoắn tử cung. Với đặc tính kháng viêm, aspirin được giả thuyết rằng có thể cải thiện sự bám nhau giúp ngăn ngừa tiền sản giật. Vì vậy, spirin liều thấp được khuyến cáo sử dụng để dự phòng tiền sản giật trong thai kỳ. Mặt khác, aspirin cũng được chỉ định cho các trường hợp thai giới hạn tăng trưởng, sinh non, thai lưu.
Sốt là triệu chứng phổ biến trong thực hành lâm sàng hàng ngày và một số lượng lớn người bệnh nhập viện do sốt. Nhiều người bệnh được dùng thuốc kháng sinh, thuốc kháng vi-rút, thuốc kháng nấm hoặc thuốc kháng ký sinh trùng, nếu coi nhiễm trùng là nguyên nhân chính. Tuy nhiên, thuốc được dùng để điều trị có thể là nguyên nhân tiềm ẩn gây sốt trong bối cảnh như vậy