Những ảnh hưởng khi sử dụng Paracetamol trong thai kỳ
Ds. Đặng Thị Thuận Thảo (dịch)
Khoa Dược - BV Từ Dũ
Paracetamol, là thuốc giảm đau hiệu quả trong trường hợp đau đầu và đau cơ bắp. Khi được sử dụng một cách thích hợp, thuốc này được xem là an toàn. Paracetamol đã được bán trên thị trường từ những năm 1950, là loại thuốc phổ biến nhất được sử dụng để điều trị đau và sốt trong thai kỳ. Phần lớn phụ nữ mang thai có thể dùng Paracetamol trong thai kỳ.
Một nghiên cứu của UCLA phối hợp với trường Đại học Aarhus ở Đan Mạch, được đăng trên tạp chí Nhi Khoa JAMA vào tháng 2/2014, đã đưa ra lo ngại về việc sử dụng Paracetamol trong thai kỳ cho thấy những đứa trẻ có mẹ sử dụng Paracetamol trong thai kỳ có nguy cơ phát triển các rối loạn hành vi và rối loạn tăng động thái quá như thiếu chú ý, hiếu động thái quá (hội chứng tâm thần xuất hiện trong thời thơ ấu) so với những đứa trẻ có mẹ không sử dụng thuốc giảm đau trong thai kỳ.
Nhóm nghiên cứu của Đại học California, Los Angeles đã phân tích 64.322 trẻ em và mẹ của chúng trong khoảng thời gian từ năm 1996 đến năm 2002. Các nhà nghiên cứu lấy tiêu chuẩn chẩn đoán rối loạn tăng động thái quá và rối loạn hành vi của Bệnh viện Quốc Gia Đan Mạch năm 2011 hoặc Bệnh viện Tâm Thần Trung Ương Đan Mạch
Các bà mẹ được yêu cầu báo cáo việc sử dụng Paracetamol trong thai kỳ và vấn đề phát triển hành vi của con họ thông qua một bảng câu hỏi. Việc sử dụng Paracetamol trong thai kỳ của bà mẹ được xác định qua ba lần phỏng vấn bằng điện thoại trong thời gian bà mẹ mang thai và một lần sau sáu tháng sinh con.
Kết quả cho thấy hơn 50% các bà mẹ báo cáo có sử dụng Paracetamol vào một số thời điểm trong thai kỳ. Các nhà nghiên cứu thấy rằng những rủi ro tiếp tục tăng khi các bà mẹ sử dụng Paracetamol trong khoảng thời gian dài (>3 tháng) trong thai kỳ. Trẻ em có mẹ sử dụng Paracetamol hơn 20 tuần mang thai có nguy cơ 50% có trẻ chẩn đoán rối loạn tăng động. Trẻ em có mẹ sử dụng Paracetamol trong suốt thai kỳ có nguy cơ cao hơn 13% - 37 % có trẻ chẩn đoán rối loạn tăng động. Kết quả này có thể giải thích sự gia tăng tỷ lệ mắc rối loạn hành vi của trẻ sau này. Theo CDC, tỷ lệ trẻ em được chẩn đoán rối loạn hành vi ngày càng tăng. Vào năm 2003, 7,8 % trẻ em có rối loạn hành vi, và con số này tăng lên đến 11 % trong năm 2011.
Dựa trên dữ liệu thử nghiệm trên động vật cho thấy Paracetamol gây rối loạn nội tiết tố, và khi tiếp xúc với nội tiết tố bất thường trong thai kỳ có thể ảnh hưởng đến sự phát triển não của thai nhi. Paracetamol có thể vượt qua hàng rào nhau thai và có khả năng làm gián đoạn sự phát triển não của thai nhi bằng cách gây rối loạn hormone của mẹ và có thể gây chết tế bào thần kinh.
Miriam Cooper, Cardiff, Đại học Y khoa Anh, cho rằng mặc dù các kết quả của nghiên cứu này cung cấp bằng chứng sơ bộ rằng việc sử dụng Paracetamol trong thai kỳ có thể làm tăng nguy cơ rối loạn hành vi ở trẻ em, nhưng nghiên cứu không không trình bày về liên hệ nhân quả. Các nhà nghiên cứu cũng đề nghị thêm những nghiên cứu để xác nhận về kết quả, và như vậy Paracetamol không còn được coi là một thuốc giảm đau an toàn sử dụng trong thời kỳ mang thai.
Tài liệu tham khảo
Mark Wheeler (February 24 , 2014), Use of acetaminophen during pregnancy linked to ADHD in children
Độc tính trên thận do thuốc là nguyên nhân phổ biến gây ra tổn thương thận cấp tính (AKI) và kháng sinh (KS) là một trong những nhóm thuốc lớn nhất liên quan đến AKI. Cơ chế gây độc tính trên thận do KS bao gồm tổn thương cầu thận, tổn thương hoặc rối loạn chức năng ống thận, tắc nghẽn ống lượn xa do trụ niệu và viêm thận kẽ cấp tính (AIN) do phản ứng quá mẫn loại IV (loại chậm). Các biểu hiện lâm sàng của độc tính trên thận do KS bao gồm hoại tử ống thận cấp (ATN), AIN và hội chứng Fanconi.
Trong 6 tháng đầu năm 2025, Bệnh viện Từ Dũ ghi nhận 204 báo cáo ADR, tăng 1,3 lần so với cùng kỳ năm 2024 (160 báo cáo).
Việc sử dụng hệ thống phóng thích Levonorgestrel trong tử cung (LNG-IUS: Levonorgestrel-releasing intrauterine system) có liên quan đến tăng nguy cơ ung thư vú. Một nghiên cứu ở Đan Mạch ghi nhận 14 trường hợp ung thư vú trên 10.000 phụ nữ tránh thai bằng LNG-IUS so với phụ nữ tránh thai không dùng nội tiết.
Theo kết quả của một nghiên cứu trên JAMA Network Open, tiêm vắc-xin cúm không liên quan đến việc tăng nguy cơ mắc các kết quả bất lợi trong thời kỳ chu sinh đối với những người mang thai liên tiếp. Các tác giả nghiên cứu cho biết những phát hiện này ủng hộ các khuyến nghị hiện tại cho những người mang thai hoặc những người có thể mang thai trong mùa cúm.
Staphylococcus aureus, một loại vi khuẩn gram dương, là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong do nhiễm trùng huyết trên toàn thế giới, với tỷ lệ tử vong từ 15% đến 30% và ước tính có 300.000 ca tử vong mỗi năm.
Các loài thuộc chi Candida là một phần của hệ vi sinh vật thường trú trong âm đạo có khoảng 25% ở phụ nữ, do vậy việc phát hiện nấm không đủ để chẩn đoán bệnh. Ước tính có 75% phụ nữ bị nhiễm nấm candida âm đạo ít nhất một lần trong đời. Nồng độ estrogen và tăng sản xuất glycogen ở âm đạo, tình trạng này xảy ra thường gặp và nghiêm trọng hơn trong thai kỳ. Trong thời kỳ mang thai, bệnh có liên quan đến những kết quả bất lợi trong sản khoa như vỡ ối sớm, chuyển dạ sớm, viêm màng ối, nhiễm nấm candida da ở trẻ sơ sinh và nhiễm trùng hậu sản 1. Bệnh viêm âm hộ-âm đạo do nấm candida là một trong những nguyên nhân phổ biến nhất có triệu chứng gây ngứa và tiết dịch âm đạo. Biểu hiện của bệnh là tình trạng viêm thường gặp ở các loài nấm Candida với các triệu chứng là ngứa và viêm đỏ.