Những cảnh báo của FDA về tính an toàn của một số thuốc 6 tháng đầu năm 2013
Ds. Đặng Thị Thuận Thảo
Khoa Dược, Bệnh viện Từ Dũ
1. Azithromycin (Zithromax hoặc Zmax) và nguy cơ gây bất thường nhịp tim có khả năng dẫn đến tử vong
Cục Quản lý an toàn Thực Phẩm và Dược Phẩm Mỹ (FDA) cảnh báo về thuốc azithromycin (Zithromax hoặc Zmax) có thể gây ra những thay đổi bất thường nhịp tim có thể dẫn đến khả năng tử vong. Những bệnh nhân có nguy cơ gồm: có khoảng QT kéo dài, nồng độ kali hoặc magiê trong máu thấp, nhịp tim chậm, đang sử dụng một số loại thuốc dùng để điều trị nhịp tim bất thường, hoặc loạn nhịp tim.
Thông tin nhãn thuốc azithromycin đã được cập nhật để tăng cường cảnh báo về nguy cơ kéo dài khoảng QT và xoắn đỉnh, hiếm gặp nhịp tim bất thường. Thông tin cũng được bổ sung về kết quả của một nghiên cứu cho thấy azithromycin có thể kéo dài khoảng QT.
Bác sĩ nên quan tâm đến các nguy cơ bất thường nhịp tim gây tử vong của azithromycin khi xem xét lựa chọn điều trị cho các bệnh nhân đã có nguy cơ tai biến tim mạch. FDA lưu ý rằng nguy cơ kéo dài khoảng QT không chỉ đối với azithromycin mà còn đối với những thuốc thay thế trong nhóm Macrolide hoặc nhóm fluoroquinolones.
Tuyên bố của FDA ngày 17/5/2012 về nghiên cứu của New England Journal of Medicine (NEJM) đã so sánh nguy cơ tử vong tim mạch ở những bệnh nhân được điều trị bằng các kháng sinh như azithromycin, amoxicillin, ciprofloxacin (Cipro), levofloxacin (Levaquin) hoặc không sử dụng kháng sinh Nghiên cứu báo cáo sự gia tăng tử vong do tim mạch và nguy cơ tử vong do bất kỳ nguyên nhân nào trong những bệnh nhân được điều trị azithromycin (Zithromax) trong 5 ngày so với những người được điều trị bằng amoxicillin, ciprofloxacin, hoặc không điều trị kháng sinh. Nguy cơ tử vong tim mạch liên quan đến levofloxacin cũng tương tự như azithromycin.
FDA sẽ cập nhật thông tin có liên quan có sẵn về azithromycin và nguy cơ gây bất thường nhịp tim
2. Valproate, thuốc chống động kinh bị chống chỉ định cho phòng ngừa đau nửa đầu ở phụ nữ mang thai do giảm chỉ số IQ ở trẻ sơ sinh
FDA khuyến cáo các thuốc chống động kinh như valproate natri và các sản phẩm liên quan như valproic acid và divalproex sodium được chống chỉ định cho phụ nữ mang thai để phòng ngừa chứng đau nửa đầu. Dựa trên thông tin từ một nghiên cứu gần đây, có bằng chứng rằng những loại thuốc này có thể gây giảm chỉ số IQ ở những trẻ có mẹ được chỉ định những thuốc này trong thời kỳ mang thai. Những cảnh báo mạnh hơn về việc sử dụng thuốc này trong thời kỳ mang thai sẽ được thêm vào nhãn thuốc. Tính an toàn của thuốc valproate sử dụng ở phụ nữ mang thai trong phòng ngừa chứng đau nửa đầu sẽ được thay đổi từ mức phân loại "D" (lợi ích điều trị của thuốc ở phụ nữ mang thai có thể chấp nhận được mặc dù thuốc có những rủi ro) thành mức phân loại "X" (có nguy cơ rõ ràng khi sử dụng thuốc ở phụ nữ mang thai).
Tính an toàn của thuốc valproate được phân loại D khi sử dụng ở phụ nữ mang thai trong điều trị động kinh và hưng phấn kết hợp với rối loạn lưỡng cực. Chỉ nên chỉ định valproate ở phụ nữ mang thai bị động kinh hoặc rối loạn lưỡng cực trong trường hợp các thuốc khác không có hiệu quả.
Valproate không nên dùng ở phụ nữ không mang thai, ngoại trừ trường hợp cần thiết sử dụng thuốc để kiểm soát tình trạng sức khỏe của người phụ nữ. Tất cả các phụ nữ không mang thai trong độ tuổi sinh đẻ được chỉ định thuốc valproate nên sử dụng biện pháp tránh thai.
Các chế phẩm valproate gồm: sodium valproate (Depacon), divalproex sodium (Depakote, Depakote CP, và Depakote ER), valproic acid (Depakene và Stavzor)…
Cảnh báo này của FDA dựa trên kết quả cuối cùng của nghiên cứu về ảnh hưởng của thuốc chống động kinh lên sự phát triển thần kinh (NEAD). Nghiên cứu cho thấy những trẻ có phơi nhiễm với các chế phẩm valproate trong thời kỳ mang thai bị giảm chỉ số thông minh vào năm 6 tuổi so với những trẻ phơi nhiễm với các loại thuốc chống động kinh khác. Sự khác biệt về chỉ số IQ trung bình giữa các trẻ đã phơi nhiễm với valproate và trẻ phơi nhiễm với thuốc chống động kinh khác thay đổi từ 8 đến 11 điểm tùy thuộc vào loại thuốc mà valproate được so sánh.
FDA đã cảnh báo nguy cơ của thuốc này vào tháng 6 năm 2011. Tại thời điểm đó, FDA cũng đã làm việc với các nhà sản xuất valproate để sửa nhãn thuốc sau khi nhận được kết quả tạm thời từ các nghiên cứu NEAD cho thấy điểm thi nhận thức ở trẻ em phơi nhiễm với valproate vào thời điểm 3 tuổi thấp hơn so với trẻ phơi nhiễm với chống động kinh khác
Phụ nữ mang thai đang dùng thuốc valproate không nên ngừng thuốc và nên tham khảo ý kiến của bác sĩ. Việc ngưng điều trị valproate đột ngột có thể gây ra vấn đề sức khỏe nghiêm trọng và đe dọa tính mạng người mẹ hoặc thai nhi.
Vẫn chưa biết khoảng thời gian phơi nhiễm với valproate trong thời gian mang thai bao lâu thì có thể có nguy cơ. Bởi vì những phụ nữ trong nghiên cứu NEAD được chỉ định thuốc chống động kinh trong suốt thai kỳ, và nguy cơ giảm chỉ số IQ có liên quan đến một khoảng thời gian đặc biệt trong khi mang thai không được đánh giá.
FDA đang làm việc với nhà sản xuất để thay đổi nhãn thuốc cho các sản phẩm valproate với các thông tin cập nhật nguy cơ này. FDA vẫn tiếp tục đánh giá thông tin về những rủi ro tiềm năng của việc sử dụng valproate trong thời kỳ mang thai và sẽ cập nhật khi có thêm thông tin.
Tài liệu tham khảo
1. FDA (2013), Azithromycin (Zithromax or Zmax) and the risk of potentially fatal heart rhythms, Safety Announcement
2. FDA (2013), FDA Drug Safety Communication: Valproate Anti-seizure Products Contraindicated for Migraine Prevention in Pregnant Women due to Decreased IQ Scores in Exposed Children, Safety Announcement
Trong bản dự thảo cuối cùng, Viện Y tế và Chất lượng Điều trị Quốc gia Anh (NICE) cho biết relugolix-estradiol-norethisterone là một lựa chọn để điều trị các triệu chứng lạc nội mạc tử cung ở những người phụ nữ trưởng thành đang trong độ tuổi sinh sản, nhưng không đáp ứng với phương pháp điều trị nội khoa hoặc phẫu thuật trước đó.
Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC), có khoảng 10% bệnh nhân tại Mỹ được báo cáo bị dị ứng penicillin. Tuy nhiên, dưới 1% bị dị ứng qua trung gian IgE (loại 1) và các nhà nghiên cứu lưu ý rằng, khoảng 80% bệnh nhân này sẽ mất độ nhạy cảm sau 10 năm. Hơn nữa, CDC khuyến nghị cần xác định những bệnh nhân không thực sự dị ứng penicillin để giảm việc sử dụng kháng sinh phổ rộng không cần thiết. Phản ứng chéo giữa penicillin và cephalosporinlà rất hiếm, nhưng nhiều bác sĩ tránh kê đơn cephalosporin cho bệnh nhân bị dị ứng penicillin, dẫn đến tăng cường sử dụng các loại kháng sinh khác như là quinolon, macrolid, clindamycin, carbapenem và vancomycin, thường gặp nhiều tác dụng phụ hơn, tăng chi phí chăm sóc sức khỏe và góp phần vào tình trạng đề kháng kháng sinh
Độc tính trên thận do thuốc là nguyên nhân phổ biến gây ra tổn thương thận cấp tính (AKI) và kháng sinh (KS) là một trong những nhóm thuốc lớn nhất liên quan đến AKI. Cơ chế gây độc tính trên thận do KS bao gồm tổn thương cầu thận, tổn thương hoặc rối loạn chức năng ống thận, tắc nghẽn ống lượn xa do trụ niệu và viêm thận kẽ cấp tính (AIN) do phản ứng quá mẫn loại IV (loại chậm). Các biểu hiện lâm sàng của độc tính trên thận do KS bao gồm hoại tử ống thận cấp (ATN), AIN và hội chứng Fanconi.
Trong 6 tháng đầu năm 2025, Bệnh viện Từ Dũ ghi nhận 204 báo cáo ADR, tăng 1,3 lần so với cùng kỳ năm 2024 (160 báo cáo).
Việc sử dụng hệ thống phóng thích Levonorgestrel trong tử cung (LNG-IUS: Levonorgestrel-releasing intrauterine system) có liên quan đến tăng nguy cơ ung thư vú. Một nghiên cứu ở Đan Mạch ghi nhận 14 trường hợp ung thư vú trên 10.000 phụ nữ tránh thai bằng LNG-IUS so với phụ nữ tránh thai không dùng nội tiết.
Theo kết quả của một nghiên cứu trên JAMA Network Open, tiêm vắc-xin cúm không liên quan đến việc tăng nguy cơ mắc các kết quả bất lợi trong thời kỳ chu sinh đối với những người mang thai liên tiếp. Các tác giả nghiên cứu cho biết những phát hiện này ủng hộ các khuyến nghị hiện tại cho những người mang thai hoặc những người có thể mang thai trong mùa cúm.