Những hướng dẫn mới về điều trị hen suyễn trong thai kỳ
Ds. Đặng Thị Thuận Thảo
Khoa Dược – BV Từ Dũ
I. Tổng quan
Hen suyễn là một tình trạng y khoa nghiêm trọng nói chung và ảnh hưởng đến khoảng 4-8% phụ nữ mang thai.
Sự phổ biến và phát bệnh của hen suyễn hiện nay đang tăng, mặc dù tỷ lệ bệnh tật do hen suyễn giảm trong một vài năm gần đây.
II. Những đề nghị
Bệnh suyễn không phải luôn luôn tệ hại hơn lúc mang thai. Trong thực tế, nó có thể cải thiện hoặc tiếp diễn không thay đổi. Tuy nhiên, có khoảng 30% số ca nặng thêm.
Các khảo sát cho thấy hen suyễn làm cho thai kỳ rắc rối hơn và làm tăng nguy cơ tử vong chu sinh, tiền sản giật, sinh thiếu tháng, và giảm thân trọng sơ sinh.
Những đánh giá lâm sàng về tình trạng hen suyễn gồm những đánh giá chủ quan và thử nghiệm chức năng của phổi.
Trong suốt thời kỳ mang thai, mục đích chính điều trị hen suyễn là duy trì đầy đủ oxy của bào thai bằng cách ngăn chặn tình trạng giảm oxy mô ở người mẹ vì vậy đảm bảo đủ oxy cho bào thai. Những bước điều trị thường rất chi tiết nhằm điều chỉnh liều lượng thuốc phù hợp với tình trạng tăng nặng của bệnh hen suyễn.
Đối với những trường hợp hen suyễn dai dẵng trong thời kỳ mang thai, liệu pháp điều trị có kiểm soát đầu tiên bao gồm việc sử dụng corticosteroids dạng xông hít.
Càng tránh dùng corticoid uống càng tốt. Việc uống corticoid có thể gây nên tật chẻ vòm hầu và nhẹ cân sơ sinh, nhưng việc tiêm hay uống trong thời gian ngắn được xem là an toàn. Tật chẻ vòm hầu không xảy ra ngoại trừ trường hợp người mẹ uống prednison hàng ngày. Các khảo sát cho thấy việc uống corticoid trong quý đầu của thai kỳ có kết hợp với nguy cơ gia tăng về tật sứt môi. Ngoài ra corticoid uống cũng kết hợp với nguy cơ tiền sản giật, sinh non và sinh thiếu cân.
Bệnh nhân mang thai và bị suyễn thường hay điều trị không đủ và các tài liệu hướng dẫn cho thấy rõ ràng việc điều trị thiếu là một mối nguy cơ lớn hơn cho em bé so với việc dùng corticoid hít”.
Các khảo sát cho thấy các thuốc hít corticoid là những liệu pháp an toàn sử dụng lúc mang thai. TS. Renée Ahrens Thomas của Đại học Shenandoah ở Winchester, Virginia (Mỹ), nói: “Các tài liệu hướng dẫn mới nhấn mạnh rằng các nghiên cứu hồ sơ dài hạn cho thấy không có sự liên kết giữa các dị tật và thuốc hít corticosteroid. Trong thực tế, nếu không sử dụng chúng thì khả năng sinh non hay nhẹ cân sơ sinh cao hơn”.
Trong suốt thời kỳ mang thai, Budesonide là dạng thuốc corticosteroid dạng xông hít được ưa chuộng.
Đối với phụ nữ mang thai bị hen suyễn, liệu pháp điều trị cấp cứu được đề nghị là albuterol dạng xông hít.
Sự cải thiện tình trạng sức khỏe ở người mẹ có thể được tăng lên mà không cần sự trợ giúp của thuốc bằng cách nhận ra và kiểm soát hoặc tránh sự phơi nhiễm với khói thuốc và những tác nhân dị ứng và kích ứng khác.
Liệu pháp miễn dịch tiếp tục được đề nghị trên những phụ nữ sử dụng liều duy trì, và không có những tác dụng có hại nào khi tiêm và thấy có tác dụng.
Trong suốt thời kỳ cho con bú, không chống chỉ định sử dụng prednisone, theophylline, thuốc kháng histamines, corticosteroids dạng xông hít, beta2-agonists, và cromolyn. Chỉ có một lượng nhỏ thuốc trị hen suyễn qua sữa mẹ.
Những trường hợp hen suyễn nặng và kiểm soát kém có thể liên quan đến tình trạng sinh non, cần sử dụng biện pháp hổ trợ sinh sản, có thể gây tiền sản giật, phát triển giới hạn trong tử cung, những biến chứng xung quanh thời kỳ chu sinh, và tình trạng bệnh tật và tử vong trên người mẹ.
* Nội dung chi tiết vui lòng bạn tải file .pdf.
Acetaminophen (paracetamol) đã được sử dụng để hạ sốt và giảm đau từ nhẹ đến trung bình. Thuốc có sẵn ở dạng đơn chất hoặc kết hợp với các thuốc khác để điều trị các triệu chứng cảm lạnh, cúm, đau đầu và viêm xương khớp. Tên thương mại phổ biến là Tylenol. Theo Tạp chí Wall Street Journal đưa tin, Bộ trưởng Y tế Hoa Kỳ dự định thông tin về mối liên quan giữa chứng tự kỷ và việc phơi nhiễm với thuốc giảm đau và hạ sốt Tylenol trước khi sinh, như sau:
Tiêm chủng cho mẹ giúp bảo vệ cả mẹ và thai nhi khỏi một số bệnh nhiễm trùng. Lý tưởng nhất là tiêm chủng trước khi thụ thai, nhưng trong một số trường hợp, việc tiêm chủng trong thai kỳ cũng được chỉ định.
Nhiều bằng chứng cho thấy rằng, việc sử dụng kháng sinh ở bệnh nhân tiên lượng nặng bị suy thận cấp (STC) thường không đạt được mục tiêu dược lực học và tỉ lệ tử vong cao liên quan đến nhiễm trùng. Do đó, bài viết này đánh giá những thay đổi thông số về dược động học và dược lực học trên bệnh nhân nặng có STC và đề xuất những giải pháp để có thể tối ưu liều dùng kháng sinh trên những bệnh nhân này.
Trong bản dự thảo cuối cùng, Viện Y tế và Chất lượng Điều trị Quốc gia Anh (NICE) cho biết relugolix-estradiol-norethisterone là một lựa chọn để điều trị các triệu chứng lạc nội mạc tử cung ở những người phụ nữ trưởng thành đang trong độ tuổi sinh sản, nhưng không đáp ứng với phương pháp điều trị nội khoa hoặc phẫu thuật trước đó.
Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC), có khoảng 10% bệnh nhân tại Mỹ được báo cáo bị dị ứng penicillin. Tuy nhiên, dưới 1% bị dị ứng qua trung gian IgE (loại 1) và các nhà nghiên cứu lưu ý rằng, khoảng 80% bệnh nhân này sẽ mất độ nhạy cảm sau 10 năm. Hơn nữa, CDC khuyến nghị cần xác định những bệnh nhân không thực sự dị ứng penicillin để giảm việc sử dụng kháng sinh phổ rộng không cần thiết. Phản ứng chéo giữa penicillin và cephalosporinlà rất hiếm, nhưng nhiều bác sĩ tránh kê đơn cephalosporin cho bệnh nhân bị dị ứng penicillin, dẫn đến tăng cường sử dụng các loại kháng sinh khác như là quinolon, macrolid, clindamycin, carbapenem và vancomycin, thường gặp nhiều tác dụng phụ hơn, tăng chi phí chăm sóc sức khỏe và góp phần vào tình trạng đề kháng kháng sinh
Độc tính trên thận do thuốc là nguyên nhân phổ biến gây ra tổn thương thận cấp tính (AKI) và kháng sinh (KS) là một trong những nhóm thuốc lớn nhất liên quan đến AKI. Cơ chế gây độc tính trên thận do KS bao gồm tổn thương cầu thận, tổn thương hoặc rối loạn chức năng ống thận, tắc nghẽn ống lượn xa do trụ niệu và viêm thận kẽ cấp tính (AIN) do phản ứng quá mẫn loại IV (loại chậm). Các biểu hiện lâm sàng của độc tính trên thận do KS bao gồm hoại tử ống thận cấp (ATN), AIN và hội chứng Fanconi.