Ô nhiễm không khí từ giao thông có thể dẫn tới nguy cơ sinh con nhẹ cân
Ds Thân Thị Mỹ Linh (lược dịch)
Khoa Dược
Theo Reuters Health, một nghiên cứu mới từ Anh cho thấy ô nhiễm không khí, nhưng không phải ô nhiễm tiếng ồn giao thông, dường như có liên quan đến nguy cơ sinh con nhẹ cân.
Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng tình trạng ô nhiễm không khí trong giao thông đường bộ dẫn đến nguy cơ sinh con nhẹ cân. Giao thông đường bộ vừa gây ra tiếng ồn vừa gây ra sự ô nhiễm không khí, nhưng các nghiên cứu về ô nhiễm tiếng ồn cho những kết quả mâu thuẫn nhau.
Tiếng ồn gây những ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ, ví dụ: rối loạn giấc ngủ, tăng huyết áp và bệnh tim mạch, vì vậy nó có thể ảnh hưởng đến sức khoẻ của các bà mẹ trong thai kỳ và sức khoẻ của thai nhi.
Nhóm nghiên cứu của tiến sĩ Rachel Smith và cộng sự tại trường Y tế công cộng thuộc Imperial College, London tiến hành điều tra ảnh hưởng của việc tiếp xúc với không khí bị ô nhiễm và tiếng ồn giao thông trong suốt thời kỳ mang thai đối với trọng lượng khi sinh của bé. Nhóm nghiên cứu đã phát hiện thấy nguy cơ sinh non hoặc trọng lượng sơ sinh thấp đối với những bà mẹ phơi nhiễm cao với không khí bị ô nhiễm do giao thông đường bộ trong thời kỳ mang thai nhưng không thấy ảnh hưởng riêng biệt của tiếng ồn giao thông đường bộ đối với trọng lượng sơ sinh.
Báo cáo online ngày 5 tháng 12 trên The BMJ, Smith và các cộng sự đã sử dụng dữ liệu quốc gia của trên 540.000 trẻ sinh sống, đơn thai, đủ tháng ở khu vực Greater London trong khoảng thời gian từ năm 2006 đến năm 2010, nhóm nghiên cứu đặc biệt quan tâm đến những đứa trẻ sinh ra có trọng lượng sơ sinh thấp (<5,5 pounds) và tuổi thai nhỏ.
Địa chỉ nhà của thai phụ ngay tại thời điểm sinh đã được sử dụng để ước tính mức độ phơi nhiễm trung bình hàng tháng đối với các chất gây ô nhiễm liên quan đến giao thông bao gồm nitơ dioxit, nitơ oxit, PM2.5... Các nhà nghiên cứu cũng ước tính mức ồn giao thông trung bình ngày và đêm.
Sự gia tăng các chất gây ô nhiễm không khí liên quan đến giao thông, đặc biệt là PM2.5, có liên quan đến tỉ lệ trẻ nhẹ cân từ 2% đến 6% và khoảng 1% đến 3% tăng tỷ lệ sinh non ngay cả sau khi đưa chỉ số tiếng ồn giao thông vào phân tích
Các nguy cơ liên quan đến ô nhiễm không khí nên được xem xét theo từng bối cảnh, nghĩa là mức độ ảnh hưởng của ô nhiễm không khí đối với trọng lượng khi sinh của một đứa bé tương đối nhỏ so với sự ảnh hưởng đã ghi nhận được của việc hút thuốc. Tuy nhiên, tần suất tác động có thể là lớn bởi vì ngày càng nhiều phụ nữ phơi nhiễm với không khí bị ô nhiễm hơn là với khói thuốc trong thời kỳ mang thai.
Việc thay đổi lớn về lối sống, đi lại để giảm bớt sự ô nhiễm không khí là bất khả thi đối với đại đa số người dân. Các nhà hoạch định chính sách cần có những hành động để nâng cao chất lượng không khí, giảm tác động của ô nhiễm không khí và nâng cao nhận thức rằng việc phơi nhiễm trong thời kỳ mang thai đối với sự ô nhiễm không khí hạt nhỏ là gây bất lợi cho thai nhi.
Stock, một nhà nghiên cứu của Viện nghiên cứu Y khoa Queen ở Đại học Edinburgh - Anh, nói rằng ô nhiễm không khí từ giao thông cũng được biết đến là gây bất lợi cho sức khoẻ của trẻ em và người lớn. Nghiên cứu này cung cấp thêm bằng chứng cho thấy ô nhiễm không khí từ giao thông cũng có hại cho trẻ sơ sinh và tiếng ồn giao thông dường như không liên quan đến cân nặng khi sinh ở trẻ sơ sinh.
Tài liệu tham khảo
https://www.medscape.com/viewarticle/890401
Tiêm chủng cho mẹ giúp bảo vệ cả mẹ và thai nhi khỏi một số bệnh nhiễm trùng. Lý tưởng nhất là tiêm chủng trước khi thụ thai, nhưng trong một số trường hợp, việc tiêm chủng trong thai kỳ cũng được chỉ định.
Nhiều bằng chứng cho thấy rằng, việc sử dụng kháng sinh ở bệnh nhân tiên lượng nặng bị suy thận cấp (STC) thường không đạt được mục tiêu dược lực học và tỉ lệ tử vong cao liên quan đến nhiễm trùng. Do đó, bài viết này đánh giá những thay đổi thông số về dược động học và dược lực học trên bệnh nhân nặng có STC và đề xuất những giải pháp để có thể tối ưu liều dùng kháng sinh trên những bệnh nhân này.
Trong bản dự thảo cuối cùng, Viện Y tế và Chất lượng Điều trị Quốc gia Anh (NICE) cho biết relugolix-estradiol-norethisterone là một lựa chọn để điều trị các triệu chứng lạc nội mạc tử cung ở những người phụ nữ trưởng thành đang trong độ tuổi sinh sản, nhưng không đáp ứng với phương pháp điều trị nội khoa hoặc phẫu thuật trước đó.
Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC), có khoảng 10% bệnh nhân tại Mỹ được báo cáo bị dị ứng penicillin. Tuy nhiên, dưới 1% bị dị ứng qua trung gian IgE (loại 1) và các nhà nghiên cứu lưu ý rằng, khoảng 80% bệnh nhân này sẽ mất độ nhạy cảm sau 10 năm. Hơn nữa, CDC khuyến nghị cần xác định những bệnh nhân không thực sự dị ứng penicillin để giảm việc sử dụng kháng sinh phổ rộng không cần thiết. Phản ứng chéo giữa penicillin và cephalosporinlà rất hiếm, nhưng nhiều bác sĩ tránh kê đơn cephalosporin cho bệnh nhân bị dị ứng penicillin, dẫn đến tăng cường sử dụng các loại kháng sinh khác như là quinolon, macrolid, clindamycin, carbapenem và vancomycin, thường gặp nhiều tác dụng phụ hơn, tăng chi phí chăm sóc sức khỏe và góp phần vào tình trạng đề kháng kháng sinh
Độc tính trên thận do thuốc là nguyên nhân phổ biến gây ra tổn thương thận cấp tính (AKI) và kháng sinh (KS) là một trong những nhóm thuốc lớn nhất liên quan đến AKI. Cơ chế gây độc tính trên thận do KS bao gồm tổn thương cầu thận, tổn thương hoặc rối loạn chức năng ống thận, tắc nghẽn ống lượn xa do trụ niệu và viêm thận kẽ cấp tính (AIN) do phản ứng quá mẫn loại IV (loại chậm). Các biểu hiện lâm sàng của độc tính trên thận do KS bao gồm hoại tử ống thận cấp (ATN), AIN và hội chứng Fanconi.
Trong 6 tháng đầu năm 2025, Bệnh viện Từ Dũ ghi nhận 204 báo cáo ADR, tăng 1,3 lần so với cùng kỳ năm 2024 (160 báo cáo).