Ondansetron và thai kỳ
Ds Thân Thị Mỹ Linh – Khoa Dược
(lược dịch)
Buồn nôn và nôn trong thai kỳ thường xảy ra ở khoảng 80% phụ nữ với khoảng 15% cần dùng thuốc chống nôn. Tuy nhiên, buồn nôn và ói mửa thường gặp đỉnh điểm trong tam cá nguyệt đầu tiên của thai kỳ, cùng thời điểm ảnh hưởng nhiều nhất của thuốc lên sự phát triển của thai nhi đặc biệt có thể gây ra dị tật bẩm sinh.
Ondansetron là một chất đối kháng thụ 5-HT3 chỉ định cho công tác phòng chống buồn nôn và nôn do hóa trị gây ra, buồn nôn và nôn do chiếu xạ, buồn nôn và nôn sau phẫu thuật. Mặc dù không được sự chấp thuận của Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) để điều trị buồn nôn và nôn trong thai kỳ, ondansetron là thuốc chống nôn được chỉ định off-label cho nhiều phụ nữ mang thai. Dữ liệu về tác dụng của ondansetron đến thai nhi đang phát triển còn hạn chế và còn nhiều tranh cãi.
Năm 2004, các nghiên cứu từ Canada và Úc đã công bố kết quả của một nghiên cứu so sánh tỷ lệ sẩy thai, thai chết lưu và dị tật bẩm sinh lớn giữa những phụ nữ mang thai được chỉ định ondansetron, thuốc chống nôn khác hoặc không sử dụng thuốc chống nôn (n = 176 mỗi nhóm). Tất cả những phụ nữ được chỉ định ondansetron vào giai đoạn ba tháng đầu thai kỳ. Không có sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm thai phụ được quan sát.
Một nghiên cứu hàng loạt ca với quy mô lớn có kiểm soát tìm thấy mối lien quan giữa ondansetron với nguy cơ gia tăng đáng kể dị tật hở hàm ếch. Tỷ lệ của hở hàm ếch cao hơn 2,4 lần ở những thai phụ có sử dụng ondansetron trong tam cá nguyệt đầu tiên (n = 55) so với những thai phụ không sử dụng (n = 4479). Tuy nhiên, nguy cơ sứt môi, dị tật lỗ đái thấp hoặc các khuyết tật ống thần kinh tương tự nhau ở cả hai nhóm.
Nghiên cứu của Úc so sánh 251 phụ nữ mang thai có sử dụng ondansetron với 96.717 phụ nữ mang thai không sử dụng thuốc này trong khoảng thời gian từ 2002-2005. Mặc dù sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê, một nguy cơ gia tăng 20% đối với một dị tật bẩm sinh lớn ở trẻ có tiếp xúc với ondansetron trong tam cá nguyệt đầu tiên được báo cáo. Ước tính này dựa trên một tỷ lệ thấp của dị tật bẩm sinh và không chính xác với khoảng tin cậy rộng (OR, 1,2; CI, 0,6-2,2).
Các nhà nghiên cứu Đan Mạch đã báo cáo kết quả của một nghiên cứu đoàn hệ lớn trên 1970 phụ nữ mang thai có sử dụng ondansetron trong tam cá nguyệt đầu tiên từ năm 2004 đến năm 2011. Số liệu cơ quan y tế quốc gia Đan Mạch đã thu thập tỉ lệ phụ nữ mang thai được chỉ định ondansetron trong tam cá nguyệt đầu tiên so với phụ nữ mang thai không sử dụng thuốc là 1: 4. Một nửa trong số thai phụ được chỉ định odansetron vào thời điểm trước 10 tuần của thai kỳ. So với những phụ nữ không sử dụng thuốc thì ondansetron không có liên quan với tăng nguy cơ sẩy thai, thai chết lưu, dị tật bẩm sinh lớn hoặc sinh non. Hầu hết chỉ định sử dụng ondansetron vào nửa cuối tam cá nguyệt đầu tiên, do vậy kết quả của nghiên cứu này bị hạn chế áp dụng cho việc chỉ định ondansetron trong vài tuần đầu tiên của thai kỳ.
Một nghiên cứu khác từ Đan mạch đánh giá những tác động gây quái thai khi sử dụng ondansetron trong tam cá nguyệt đầu tiên với dữ liệu trong khoảng thời gian 1997 -2010. Trong số 897.018 trẻ sinh ra trong khoảng thời gian này, có 1.248 phụ nữ được chỉ định ondansetron. Tỷ lệ dị tật tim thai cao hơn hai lần ở trẻ sinh ra bởi các bà mẹ có sử dụng ondansetron so với những phụ nữ không sử dụng; nguy cơ dị tật bẩm sinh lớn thì tương tự.
Các nhà nghiên cứu Thụy Điển sử dụng dữ liệu của cơ quan y tế quốc gia Thụy Điển về mang thai và chỉ định sử dụng ondansetron trong thai kỳ sớm. Trong khoảng thời gian 1998 - 2012, có 1349 phụ nữ được chỉ định ondansetron trong giai đoạn đầu thai kỳ. Tiếp xúc ondansetron không có liên quan với tăng nguy cơ dị tật bẩm sinh nghiêm trọng nhưng tỷ lệ các khuyết tật tim cao hơn 1,6 lần và tỷ lệ các khuyết tật vách ngăn tim cao gấp 2,1 lần.
Nhìn chung, những rủi ro liên quan đến việc sử dụng ondansetron trong tam cá nguyệt đầu tiên của thai kỳ vẫn còn chưa rõ ràng. Hầu hết các nghiên cứu quan sát cho thấy rằng ondansetron dường như không làm tăng nguy cơ sẩy thai, thai chết lưu hoặc dị tật bẩm sinh lớn. Một vài nghiên cứu cho thấy rằng nguy cơ dị tật bẩm sinh khi tiếp xúc với ondansetron trong thai kỳ sớm thì nhỏ nhưng có nguy cơ đáng kể dị tật hở hàm ếch và dị tật tim.
Các hướng dẫn hiện hành không khuyến cáo ondansetron là lựa chọn hàng đầu điều trị buồn nôn và nôn trong thai kỳ. Phương pháp điều trị ban đầu là thay đổi lối sống và khẩu phần ăn. Nếu cần phải điều trị bằng thuốc, doxylamin/pyridoxin được FDA chấp thuận để điều trị buồn nôn và nôn trong thai kỳ. Với những bằng chứng hiện tại, ondansetron nên tránh trong ba tháng đầu mang thai trừ khi phương pháp điều trị khác không hiệu quả.
Tài liệu tham khảo
Trong giai đoạn năm 2018-2021, Mạng lưới An toàn Chăm sóc Sức khỏe Quốc gia (NHSN) đã báo cáo rằng 0,4% (n = 1.951) các ca nhiễm trùng mắc phải tại bệnh viện (HAI) ở Hoa Kỳ nguyên nhân do Acinetobacter spp. gây ra. Trong số này có 28-45% không nhạy cảm với kháng sinh carbapenem (tức là trung gian hoặc đề kháng).
Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng (RCT), BLING III cung cấp bằng chứng việc sử dụng truyền liên tục (CI) so với truyền ngắt quãng piperacillin/tazobactam và meropenem trên bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Điều này được củng cố bởi một đánh giá tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp (SRMA) của 18 RCT về CI hoặc truyền kéo dài (EI) (thời gian từ 3–4 giờ) các kháng sinh beta-lactam. Thách thức hiện nay là chuyển đổi CI như một tiêu chuẩn chăm sóc cho bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Các cân nhắc chính bao gồm các vấn đề sau:
Các nhà nghiên cứu thuộc Đại học Alabama tại Birmingham, đã tiến hành phân tích dữ liệu thứ cấp trên đối tượng phụ nữ tăng huyết áp mạn tính trong thai kỳ, so sánh với phương pháp điều trị chính. Tăng huyết áp mạn tính nhẹ trong nghiên cứu được định nghĩa là huyết áp 140-159/90-104 mmHg trước 20 tuần của thai kỳ.
Nhiễm trùng huyết – sepsis - vẫn là một trong những nguyên nhân gây tử vong lớn nhất trên thế giới, Tổ chức Y tế Thế giới ước tính 11 triệu người tử vong mỗi năm do tình trạng này. Các yếu tố chính của việc quản lý sepsis là chẩn đoán sớm, liệu pháp kháng sinh kinh nghiệm sớm và phù hợp, với biện pháp kiểm soát nguồn gây bệnh thích hợp và bảo tồn chức năng các cơ quan.
Sự ra đời của vắc-xin giúp chúng ta chủ động phòng chống các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm. Tổ chức y tế thế giới ước tính chương trình tiêm chủng hiện nay giúp ngăn ngừa 3,5-5 triệu ca tử vong mỗi năm do các bệnh như bạch hầu, uốn ván, ho gà, cúm và sởi [2].
Phòng ngừa suy nhược, mệt mỏi, đau nhức:
Hoạt động mỗi ngày đi bộ ngắn, tập các bài tập nhẹ nhàng. Giữ tinh thần ổn định
Chế độ ăn hợp lý trao đổi thêm với bác sĩ về dinh dưỡng bổ sung (thực phẩm giàu protein như thịt, cá, phô mai, sữa chua...). Uống nhiều nước, trừ khi có hướng dẫn khác.
Chườm khăn lạnh nếu có nhức mỏi, đau cơ.