Ondansetron (Zofran): nguy cơ kéo dài khoảng QTc – Giới hạn về liều dùng đường tĩnh mạch
Tóm tắt
Liều đơn tối đa của ondansetron đường tĩnh mạch trong điều trị buồn nôn và nôn do hóa trị ở người lớn hiện nay là 16 mg (truyền trong ít nhất 15 phút).
Các dữ liệu nghiên cứu mới cho thấy có sự gia tăng nguy cơ kéo dài khoảng QT được hiệu chỉnh trên điện tâm đồ (QTc), một tác dụng phụ đã biết của ondansetron, khi dùng với liều cao hơn được cho phép trước đây trong trường hợp buồn nôn và nôn do hóa trị.
Ondansetron được chỉ định để dự phòng và điều trị buồn nôn và nôn do hóa trị và xạ trị, dự phòng và điều trị buồn nôn và nôn sau phẫu thuật.
Theo một nghiên cứu ở người trưởng thành khỏe mạnh, ondansetron 32 mg dùng đường tĩnh mạch trong 15 phút gây kéo dài QTc-max 19.57 ms (giới hạn trên của 90% CI: 21.49). Như vậy, liều này có thể kéo dài khoảng QT có ý nghĩa trên lâm sàng ở một số người.
Ondansetron 8 mg truyền tĩnh mạch trong 15 phút gây kéo dài QTc 5.84 ms (giới hạn trên của 90% CI: 7.76) – mức độ này thường không làm tăng nguy cơ loạn nhịp tim.
Từ các kết quả trên, người ta dự đoán rằng ondansetron 16 mg truyền tĩnh mạch trong 15 phút có thể gây kéo dài QTC 9.1 ms (giới hạn trên của 95% CI: 11.2), mức này thường không liên quan với tăng nguy cơ loạn nhịp tim.
Kéo dài khoảng QTc có thể dẫn đến xoắn đỉnh, một rối loạn nhịp tim đe dọa tính mạng. Xoắn đỉnh được báo cáo là có liên quan đến việc sử dụng ondansetron trong thực hành lâm sàng mặc dù không xảy ra trường hợp nào trong nghiên cứu này.
Khuyến cáo đối với thầy thuốc:
- Liều đơn ondansetron đường tĩnh mạch dùng để điều trị buồn nôn và nôn do hóa trị ở người lớn không được vượt quá 16 mg (truyền trong ít nhất 15 phút)
- Tránh sử dụng ondansetron ở bệnh nhân có hội chứng QT kéo dài bẩm sinh.
- Lưu ý khi dùng ondansetron cho những bệnh nhân có các yếu tố nguy cơ kéo dài khoảng QT hoặc loạn nhịp tim. Các trường hợp này bao gồm: rối loạn chất điện giải; sử dụng thuốc khác làm tăng khoảng QT (kể cả thuốc độc tế bào) hay làm rối loạn chất điện giải; suy tim sung huyết; nhịp tim chậm; sử dụng các thuốc làm giảm nhịp tim.
- Nên điều chỉnh tình trạng hạ magie huyết và hạ kali huyết trước khi dùng ondansetron
- Liều tối đa được khuyến cáo của ondansetron đường tĩnh mạch trong dự phòng và điều trị buồn nôn và nôn sau phẫu thuật ở người lớn vẫn là liều đơn 4 mg. Ngoài ra, không có sự thay đổi về liều dùng đường tĩnh mạch đối với bất cứ chỉ định nào trong nhi khoa.
- Không có sự thay đổi về liều lượng khuyến cáo đối với các chế phẩm ondansetron đường uống hay đường trực tràng ở người lớn hoặc trẻ em trong bất cứ chỉ định nào.
Nguồn:
www.mhra.gov.uk/Safetyinformation/DrugSafetyUpdate/CON180635
Ds. Nguyễn Thị Thúy Anh (Dịch)
Khoa Dược – BV Từ Dũ
- Bệnh viện đã thực hiện 378 báo cáo ADR, giảm 7,9% so với năm 2023 (408 báo cáo), tăng 14,2% so với năm 2022 (331 báo cáo).
- Số lượng báo cáo ADR ngoại trú là 18 báo cáo, giảm 3,6 lần so với năm 2023 (66 báo cáo).
- Bệnh viện Từ Dũ được Trung tâm DI&ADR quốc gia xếp hạng 8/991 cơ sở khám chữa bệnh có hoạt động theo dõi ADR hiệu quả trong báo cáo tổng kết ADR quốc gia vào tháng 9/2024.
Mirvetuximab soravtansine-gynx đã được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) phê duyệt điều trị cho bệnh nhân trưởng thành mắc ung thư biểu mô buồng trứng, ống dẫn trứng, hoặc ung thư phúc mạc nguyên phát dương tính với thụ thể folat alpha (FRα), kháng hóa trị, là những bệnh nhân đã trải qua 3 liệu trình điều trị trước đó. Theo các chuyên gia, bệnh nhân mắc các loại ung thư này thường được phát hiện khi bệnh đã ở giai đoạn muộn, trải qua phẫu thuật và sau đó được điều trị bằng phác đồ hóa trị có platinum nhưng có thể trở nên kháng thuốc.
Kháng sinh (KS) phổ rộng được xem như “thần dược” để điều trị các bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng hoặc đe dọa tính mạng khi tác nhân gây bệnh chưa được xác định. Mục đích sử dụng KS phổ rộng nhằm bao phủ nhiều loại tác nhân vi khuẩn gram dương và gram âm, bao gồm cả các tác nhân kháng thuốc trong khi chờ kết quả nuôi cấy. Tuy nhiên, việc sử dụng bừa bãi các KS phổ rộng cũ và mới đã góp phần đáng kể vào sự gia tăng tình trạng kháng kháng sinh (AMR) – một vấn đề sức khỏe toàn cầu đáng lưu ý.
Những dữ kiện của một nghiên cứu tiền lâm sàng cho thấy: đái tháo đường thai kỳ (ĐTĐTK) có thể làm tăng nguy cơ nhiễm trùng và tử vong ở trẻ sơ sinh nguyên nhân do liên cầu khuẩn nhóm B (GBS). Có nhiều lý do như: thay đổi hệ vi sinh vật âm đạo, giảm đáp ứng miễn dịch và quá trình điều hoà thích nghi của vi khuẩn.
Tiền sản giật là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong mẹ. Bệnh lý tiền sản giật có liên quan đến sự xâm lấn tế bào nuôi nhau thai và sự tái cấu trúc động mạch xoắn tử cung. Với đặc tính kháng viêm, aspirin được giả thuyết rằng có thể cải thiện sự bám nhau giúp ngăn ngừa tiền sản giật. Vì vậy, spirin liều thấp được khuyến cáo sử dụng để dự phòng tiền sản giật trong thai kỳ. Mặt khác, aspirin cũng được chỉ định cho các trường hợp thai giới hạn tăng trưởng, sinh non, thai lưu.
Sốt là triệu chứng phổ biến trong thực hành lâm sàng hàng ngày và một số lượng lớn người bệnh nhập viện do sốt. Nhiều người bệnh được dùng thuốc kháng sinh, thuốc kháng vi-rút, thuốc kháng nấm hoặc thuốc kháng ký sinh trùng, nếu coi nhiễm trùng là nguyên nhân chính. Tuy nhiên, thuốc được dùng để điều trị có thể là nguyên nhân tiềm ẩn gây sốt trong bối cảnh như vậy