Phối hợp giữa aminoglycosid và β-lactam trong điều trị nhiễm trùng Pseudomonas aeruginosa
DS. Thân Thị Mỹ Linh
Khoa Dược - BV Từ Dũ
1. Một số trường hợp chỉ định phối hợp kháng sinh
Các kháng sinh β-lactam và các aminoglycosid tiêu diệt vi khuẩn bằng các cơ chế khác nhau, do đó có thể kết hợp một β-lactam với một aminoglycosid. Hiện nay, aminoglycosid được chỉ định phối với kháng sinh nhóm β-lactam trong điều trị một số bệnh do nhiễm Pseudomonas aeruginosa.
Viêm nội tâm mạc
Sử dụng aminoglycosid liều cao (ví dụ: tobramycin 8 mg/kg/ngày) và kháng sinh nhóm penicilin phổ rộng phổ (ví dụ: ticarcillin 18 g/ngày) hoặc nhóm cephalosporin có hoạt tính kháng Pseudomonas (cefepim) được sử dụng trong 6 tuần.
Cần theo dõi chức năng thận và nồng độ aminoglycosid trong máu.
Viêm phổi
Phối hợp 2 kháng sinh kháng Pseudomonas ngay khi phát hiện nhiễm trùng. Phối hợp thuốc trong 5 ngày sau đó xuống thang sử dụng 1 kháng sinh dựa vào kết quả kháng sinh đồ.
Nhiễm khuẩn
Khi dấu hiệu lâm sàng có nghi ngờ nhiễm trùng do Pseudomonas nghi ngờ ở những bệnh nhân giảm bạch cầu, cần kết hợp aminoglycosid với 1 kháng sinh penicillin phổ rộng hoặc 1 kháng sinh cephalosporin có hoạt tính kháng Pseudomonas.
Hiện nay việc sử dụng đơn trị liệu ceftazidim, carbapenem (ví dụ: imipenem - cilastatin, meropenem) hay phối hợp 2 β-lactam ở những bệnh nhân có sốt giảm bạch cầu vẫn còn gây tranh cãi.
Có thể thay thế β-lactam bằng fluoroquinolones hoặc phối hợp thêm với rifampin có thể có hiệu quả.
Viêm màng não
Ceftazidim là kháng sinh được lựa chọn vì thâm nhập cao vào khoang dưới nhện và có hiệu quả cao với Pseudomonas.
Điều trị ban đầu ở những bệnh nhân bị nhiễm trùng nặng nên bao gồm aminoglycosid tiêm tĩnh mạch.
Trường hợp bệnh nhân suy thận hoặc dị ứng β- lactam, aztreonam có thể có hiệu quả. Tuy nhiên kinh nghiệm lâm sàng còn hạn chế cần theo dõi bệnh nhân chặt chẽ.
Nhiễm trùng tai
Viêm tai ngoài: dùng kháng sinh và steroid tại chỗ.
Viêm tai giữa ác tính: cần phải điều trị tích cực với 2 kháng sinh và phẫu thuật.
Thời gian điều trị là 4-8 tuần, tùy thuộc vào mức độ nhiễm trùng.
Nhiễm trùng mắt
Trường hợp loét nhỏ trên bề mặt, điều trị aminoglycosid nhỏ mắt tại chỗ. Có thể thay thế bằng flouroquinolones nhỏ mắt.
Điều trị viêm nội nhãn cần sử dụng kháng sinh kết hợp (tiêm , bôi…).
Nhiễm trùng đường tiểu
Aminoglycosid tiêm có thể vẫn là kháng sinh lựa chọn, mặc dù flouroquinolones thường được sử dụng. Tobramycin thích hợp hơn gentamicin ở bệnh nhân có rối loạn chức năng thận. Nhiễm trùng tiểu có thể được điều trị bằng 1 loại kháng sinh, trừ trường hợp các bệnh nhiễm trùng máu và nhiễm trùng đường tiểu trên có hình thành áp- xe.
Thuốc kháng sinh thay thế bao gồm penicillin, cephalosporin kháng Pseudomonas, carbapenems (ví dụ: imipenem, meropenem) và aztreonam.
Thời gian điều trị là 3-5 ngày các bệnh nhiễm trùng không biến chứng; 7-10 ngày các bệnh nhiễm trùng phức tạp, đặc biệt ở những trường hợp có đặt ống thông, 10 ngày đối với nhiễm trùng có biến chứng và 2-3 tuần cho viêm bể thận. Thời gian điều trị lâu hơn đối với những bệnh nhân bị áp-xe quanh thận hoặc bên trong thận.
2. So sánh hiệu quả sử dụng b-lactam đơn trị liệu và b-lactam phối hợp aminoglycosid
Một phân tích 69 thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên (dữ liệu cho đến tháng 11 năm 2013) trên 7863 bệnh nhân so sánh hiệu quả sử dụng b-lactam đơn trị liệu so với sử dụng b-lactam kết hợp với aminoglycosid cho bệnh nhân bị nhiễm trùng nặng. Bệnh nhân nhập viện có các nhiễm khuẩn ở đường tiết niệu, ổ bụng, nhiễm khuẩn da và mô mềm, viêm phổi và nhiễm trùng không rõ nguồn gốc.
Kết quả của 47 nghiên cứu so sánh hiệu quả của một b-lactam phổ rộng so với một β-lactam phổ hẹp kết hợp với một aminoglycosid cho thấy không có sự khác biệt rõ ràng trong nguyên nhân tử vong đã được quan sát ở 2 nhóm, nhưng thất bại điều trị là ít hơn với điều trị kháng sinh β-lactam đơn trị.
22 nghiên cứu còn lại so sánh hiệu quả của việc sử dụng b-lactam đơn trị và của β-lactam đó kết hợp với aminoglycosid. Trong các thử nghiệm, không có sự khác biệt giữa các phương pháp điều trị kháng sinh đơn thuần và điều trị kháng sinh kết hợp. Nhìn chung, tỷ lệ tác dụng phụ không khác nhau giữa các nhóm nghiên cứu, nhưng tổn thương thận thường gặp với các trị liệu phối hợp. Phối hợp 2 kháng sinh cũng không ngăn cản sự phát triển của nhiễm trùng thứ cấp.
Các tác giả kết luận rằng điều trị kết hợp β-lactam với aminoglycosid không có lợi hơn β-lactam đơn trị. Hơn nữa, liệu pháp kết hợp có thể làm tăng nguy cơ tổn thương thận.
Tài liệu tham khảo
- Hướng dẫn sử dụng kháng sinh – Bệnh viện Chợ Rẫy
- Beta lactam antibiotic monotherapy versus beta lactam-aminoglycoside antibiotic combination therapy for sepsis, 7 JAN 2014.http://onlinelibrary.wiley.com/doi/10.1002/14651858.CD003344.pub3/pdf
3. Pseudomonas aeruginosa Infections Treatment & Management, 13 Feb 2014.
http://emedicine.medscape.com/article/226748-treatment
Kháng sinh chiếm gần 80% tổng số đơn thuốc được kê trong thời kỳ mang thai, và khoảng 20%–25% phụ nữ sẽ sử dụng kháng sinh trong thai kỳ. Các bệnh nhiễm trùng phổ biến nhất bao gồm nhiễm trùng đường tiết niệu (UTIs), nhiễm trùng đường sinh dục, nhiễm trùng da - mô mềm và nhiễm trùng đường hô hấp. Việc sử dụng kháng sinh trong thai kỳ luôn cần được cân nhắc giữa nguy cơ và lợi ích.
Lạc nội mạc tử cung là bệnh lý viêm mạn tính phụ thuộc estrogen, ảnh hưởng khoảng 10% phụ nữ trong độ tuổi sinh sản.
Bệnh đặc trưng bởi sự hiện diện của mô nội mạc tử cung ngoài buồng tử cung, gây đau bụng kinh, đau khi giao hợp, đau vùng chậu kéo dài và vô sinh, làm giảm đáng kể chất lượng cuộc sống.
Điều trị cần được cá thể hóa, tùy theo mức độ triệu chứng, vị trí tổn thương và nhu cầu sinh sản. Hướng dẫn hiện nay khuyến nghị kết hợp giữa điều trị nội khoa, ngoại khoa và hỗ trợ không dùng thuốc.
Phản ứng có hại của thuốc (ADR) là vấn đề thường gặp trong thực hành lâm sàng và có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ, tính mạng người bệnh nếu không được nhận biết sớm và xử trí kịp thời.
Acetaminophen (paracetamol) đã được sử dụng để hạ sốt và giảm đau từ nhẹ đến trung bình. Thuốc có sẵn ở dạng đơn chất hoặc kết hợp với các thuốc khác để điều trị các triệu chứng cảm lạnh, cúm, đau đầu và viêm xương khớp. Tên thương mại phổ biến là Tylenol. Theo Tạp chí Wall Street Journal đưa tin, Bộ trưởng Y tế Hoa Kỳ dự định thông tin về mối liên quan giữa chứng tự kỷ và việc phơi nhiễm với thuốc giảm đau và hạ sốt Tylenol trước khi sinh, như sau:
Tiêm chủng cho mẹ giúp bảo vệ cả mẹ và thai nhi khỏi một số bệnh nhiễm trùng. Lý tưởng nhất là tiêm chủng trước khi thụ thai, nhưng trong một số trường hợp, việc tiêm chủng trong thai kỳ cũng được chỉ định.
Nhiều bằng chứng cho thấy rằng, việc sử dụng kháng sinh ở bệnh nhân tiên lượng nặng bị suy thận cấp (STC) thường không đạt được mục tiêu dược lực học và tỉ lệ tử vong cao liên quan đến nhiễm trùng. Do đó, bài viết này đánh giá những thay đổi thông số về dược động học và dược lực học trên bệnh nhân nặng có STC và đề xuất những giải pháp để có thể tối ưu liều dùng kháng sinh trên những bệnh nhân này.



