Phòng ngừa bất đồng nhóm máu Rh D
Ds. Nguyễn Tấn Xuân Trang (lược dịch)
Khoa Dược – BV Từ Dũ
Những tiến bộ trong phòng ngừa và điều trị bất đồng nhóm máu Rh D là một trong những thành công lớn của sản khoa ngày nay. Có sự khác nhau nhiều về tỷ lệ hiện mắc của Rh D (–) giữa các vùng, ví dụ từ 5% ở Ấn Độ đến 15% ở Bắc Mỹ. Mặc dù ở các khu vực tỷ lệ thấp có tỷ lệ sinh cao nhưng bệnh tán huyết Rh ở trẻ sơ sinh vẫn là một nguyên nhân quan trọng gây bệnh và tử vong ở các nước không có chương trình dự phòng. Ở những nước này, 14% thai nhi bị tử vong ở những trường hợp này và một nửa số trẻ sơ sinh sống có tử vong sơ sinh hoặc chấn thương não. Việc sử dụng globulin miễn dịch Rh D thường quy làm giảm tỷ lệ tán huyết miễn dịch ở các nước phát triển. Được giới thiệu lần đầu tiên vào những năm 1970, việc sử dụng globulin miễn dịch Rh D sau sinh làm giảm tỷ lệ bất đồng nhóm máu ở những thai kỳ nguy cơ từ 13 – 16% xuống còn 0,5 – 1,8%. Nguy cơ có thể giảm xuống còn 0,14 – 0,2% với việc sử dụng thường quy thêm một liều sau sinh. Mặc dù có bằng chứng đáng kể về hiệu quả, vẫn còn một số lớn các trường hợp bất đồng nhóm máu Rh D vì không tuân thủ theo các khuyến cáo. Ngoài ra, có những dữ liệu mới để giúp hướng dẫn điều trị, đặc biệt là đối với phụ nữ kiểu hình D lặn. Mục đích của tài liệu này là cung cấp hướng dẫn dựa trên bằng chứng cho việc điều trị bệnh nhân có nguy cơ bất đồng nhóm máu Rh D.
Tóm tắt các khuyến cáo và kết luận
Các khuyến cáo sau dựa trên bằng chứng khoa học tốt và nhất quán (Mức độ A):
- Globulin miễn dịch anti – D dự phòng nên được sử dụng cho phụ nữ Rh D (–) không nhạy cảm ở tuần thứ 28 của thai kỳ. Sau khi sinh, nếu trẻ được xác nhận là Rh D (+), tất cả phụ nữ Rh D (–) không được biết là có nhạy cảm nên sử dụng globulin miễn dịch anti – D trong vòng 72 giờ sau sinh.
Các khuyến cáo sau dựa trên bằng chứng khoa học hạn chế hoặc không nhất quán (Mức độ B):
- Việc sử dụng globulin miễn dịch Rh D được khuyến cáo với tất cả các thủ thuật chẩn đoán xâm lấn như sinh thiết gai nhau hoặc chọc ối ở những phụ nữ Rh D (–) khi thai nhi có thể là Rh D (+).
Các khuyến cáo sau chủ yếu dựa trên ý kiến đồng thuận và chuyên gia (Mức độ C):
- Ngoại xoay thai (bất kể thành công) có liên quan đến nguy cơ xuất huyết thai nhi – mẹ với tỷ lệ 2 – 6% và globulin miễn dịch anti – D được chỉ định cho bệnh nhân Rh D (–) không nhạy cảm.
- Phù hợp để sử dụng globulin miễn dịch anti – D cho phụ nữ Rh D (–) nghi ngờ mang thai trứng và những người phá thai.
- Mặc dù nguy cơ bất đồng nhóm máu thấp, hậu quả có thể là đáng kể và việc sử dụng globulin miễn dịch Rh D nên được xem xét trong trường hợp sẩy thai tự nhiên ba tháng đầu, đặc biệt là những trường hợp muộn trong ba tháng đầu thai kỳ.
- Vì có nguy cơ cao bất đồng nhóm máu, những phụ nữ Rh D (–) phá thai ngoại khoa nên được dự phòng globulin miễn dịch Rh D.
- Globulin miễn dịch Rh D nên được sử dụng cho phụ nữ Rh D (–) khi chấm dứt thai kỳ, bằng thuốc hoặc ngoại khoa.
- Khuyến cáo sử dụng globulin miễn dịch Rh D cho tất cả các trường hợp thai ngoài tử cung ở phụ nữ Rh D (–).
- Globulin miễn dịch anti – D được khuyến cáo cho những phụ nữ Rh D (–) bị xuất huyết trước khi sinh từ sau tuần thứ 20 của thai kỳ.
- Globulin miễn dịch anti – D nên được dùng cho phụ nữ Rh D (–) đã từng chấn thương bụng.
- Globulin miễn dịch anti – D nên được dùng cho phụ nữ Rh D (–) đã từng bị thai lưu trong tam cá nguyệt thứ hai hoặc thứ ba.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
Prevention of Rh D Alloimmunization. ACOG Practice Bulletin number 181, August 2017. (Replaces Practice Bulletin Number 4, May 1999)
Trong bản dự thảo cuối cùng, Viện Y tế và Chất lượng Điều trị Quốc gia Anh (NICE) cho biết relugolix-estradiol-norethisterone là một lựa chọn để điều trị các triệu chứng lạc nội mạc tử cung ở những người phụ nữ trưởng thành đang trong độ tuổi sinh sản, nhưng không đáp ứng với phương pháp điều trị nội khoa hoặc phẫu thuật trước đó.
Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC), có khoảng 10% bệnh nhân tại Mỹ được báo cáo bị dị ứng penicillin. Tuy nhiên, dưới 1% bị dị ứng qua trung gian IgE (loại 1) và các nhà nghiên cứu lưu ý rằng, khoảng 80% bệnh nhân này sẽ mất độ nhạy cảm sau 10 năm. Hơn nữa, CDC khuyến nghị cần xác định những bệnh nhân không thực sự dị ứng penicillin để giảm việc sử dụng kháng sinh phổ rộng không cần thiết. Phản ứng chéo giữa penicillin và cephalosporinlà rất hiếm, nhưng nhiều bác sĩ tránh kê đơn cephalosporin cho bệnh nhân bị dị ứng penicillin, dẫn đến tăng cường sử dụng các loại kháng sinh khác như là quinolon, macrolid, clindamycin, carbapenem và vancomycin, thường gặp nhiều tác dụng phụ hơn, tăng chi phí chăm sóc sức khỏe và góp phần vào tình trạng đề kháng kháng sinh
Độc tính trên thận do thuốc là nguyên nhân phổ biến gây ra tổn thương thận cấp tính (AKI) và kháng sinh (KS) là một trong những nhóm thuốc lớn nhất liên quan đến AKI. Cơ chế gây độc tính trên thận do KS bao gồm tổn thương cầu thận, tổn thương hoặc rối loạn chức năng ống thận, tắc nghẽn ống lượn xa do trụ niệu và viêm thận kẽ cấp tính (AIN) do phản ứng quá mẫn loại IV (loại chậm). Các biểu hiện lâm sàng của độc tính trên thận do KS bao gồm hoại tử ống thận cấp (ATN), AIN và hội chứng Fanconi.
Trong 6 tháng đầu năm 2025, Bệnh viện Từ Dũ ghi nhận 204 báo cáo ADR, tăng 1,3 lần so với cùng kỳ năm 2024 (160 báo cáo).
Việc sử dụng hệ thống phóng thích Levonorgestrel trong tử cung (LNG-IUS: Levonorgestrel-releasing intrauterine system) có liên quan đến tăng nguy cơ ung thư vú. Một nghiên cứu ở Đan Mạch ghi nhận 14 trường hợp ung thư vú trên 10.000 phụ nữ tránh thai bằng LNG-IUS so với phụ nữ tránh thai không dùng nội tiết.
Theo kết quả của một nghiên cứu trên JAMA Network Open, tiêm vắc-xin cúm không liên quan đến việc tăng nguy cơ mắc các kết quả bất lợi trong thời kỳ chu sinh đối với những người mang thai liên tiếp. Các tác giả nghiên cứu cho biết những phát hiện này ủng hộ các khuyến nghị hiện tại cho những người mang thai hoặc những người có thể mang thai trong mùa cúm.