Progesterone chỉ phòng ngừa sẩy thai ở phụ nữ có tiền sử sẩy thai
Ds Hoàng Tôn Hà Vy – Khoa Dược
(lược dịch)
Theo Reuters Health, một nghiên cứu mới từ Anh cho thấy việc chỉ định sử dụng progesterone khi thai phụ bị ra máu âm đạo sớm không giúp phòng ngừa sẩy thai, trừ khi thai phụ đã từng bị sẩy thai trước đó.
Tỷ lệ sinh trẻ sống tăng lên 5% điểm khi sử dụng progesterone ở thai phụ đã từng bị sẩy thai và đang ra máu âm đạo. Nếu thai phụ từng bị sẩy thai từ 3 lần trở lên, tỷ lệ này cao hơn 15% điểm.
Khoảng 25% thai phụ bị ra máu âm đạo trong vài tháng đầu tiên của thai kỳ. Trong khoảng 10-20% các trường hợp này, việc ra máu báo hiêu sẩy thai.
Trong nhiều năm trước, các chế phẩm progesterone được sử dụng ngoài hướng dẫn chỉ định kê toa để điều trị dọa sẩy thai, một phần dựa vào sự sụt giảm nồng độ hormone ngay trước khi sẩy thai. Điều này đã dẫn đến việc sử dụng progesterone trong điều trị ngay cả khi chưa có bằng chứng tốt ủng hộ. Trong khi đó, sự sụt giảm hormone quan sát được trước khi sẩy thai thực ra là kết cục chứ không phải nguyên nhân của biến chứng thai kỳ.
Nghiên cứu mới được công bố vào ngày 08/05/2019 trên tạp chí New England Journal of Medicine đã đưa ra bằng chứng khi nào hormone này có hiệu quả và khi nào không. Trong 2238 thai phụ không có tiền sử sẩy thai, tỷ lệ sinh trẻ sống sau 34 tuần thai là 75% ở nhóm thai phụ ra máu âm đạo được điều trị với 400 miligram micronized progesterone 2 lần/ngày. Tỉ lệ này ở nhóm sử dụng giả dược là 72%. Về mặt thống kê, sự khác biệt giữa 2 nhóm trên quá nhỏ. Tuy nhiên, ở những thai phụ đã từng sẩy thai, 75% thai phụ ở nhóm sử dụng progesterone sinh con, trong khi tỷ lệ này ở nhóm viên đặt giả dược là 70%. Ở những thai phụ đã từng sẩy thai 3 lần trở lên, tỉ lệ thai kỳ thành công là 72% ở nhóm sử dụng progesterone và 57% ở nhóm dùng giả dược.
Phát hiện hiện này được kỳ vọng sẽ làm tăng việc sử dụng progesterone ở nước Anh, nơi mà một cuộc khảo sát vào năm 2012 đã cho thấy chỉ có 4,5% thai phụ ra máu âm đạo được chỉ định progesterone, và làm giảm việc sử dụng progesterone ở một số nước có tới 90% thai phụ ra máu âm đạo được chỉ định progesterone.
Không có bằng chứng rằng việc điều trị với progesterone tự nhiên là có hại.
Tài liệu tham khảo
https://www.medscape.com/viewarticle/912773
- Bệnh viện đã thực hiện 378 báo cáo ADR, giảm 7,9% so với năm 2023 (408 báo cáo), tăng 14,2% so với năm 2022 (331 báo cáo).
- Số lượng báo cáo ADR ngoại trú là 18 báo cáo, giảm 3,6 lần so với năm 2023 (66 báo cáo).
- Bệnh viện Từ Dũ được Trung tâm DI&ADR quốc gia xếp hạng 8/991 cơ sở khám chữa bệnh có hoạt động theo dõi ADR hiệu quả trong báo cáo tổng kết ADR quốc gia vào tháng 9/2024.
Mirvetuximab soravtansine-gynx đã được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) phê duyệt điều trị cho bệnh nhân trưởng thành mắc ung thư biểu mô buồng trứng, ống dẫn trứng, hoặc ung thư phúc mạc nguyên phát dương tính với thụ thể folat alpha (FRα), kháng hóa trị, là những bệnh nhân đã trải qua 3 liệu trình điều trị trước đó. Theo các chuyên gia, bệnh nhân mắc các loại ung thư này thường được phát hiện khi bệnh đã ở giai đoạn muộn, trải qua phẫu thuật và sau đó được điều trị bằng phác đồ hóa trị có platinum nhưng có thể trở nên kháng thuốc.
Kháng sinh (KS) phổ rộng được xem như “thần dược” để điều trị các bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng hoặc đe dọa tính mạng khi tác nhân gây bệnh chưa được xác định. Mục đích sử dụng KS phổ rộng nhằm bao phủ nhiều loại tác nhân vi khuẩn gram dương và gram âm, bao gồm cả các tác nhân kháng thuốc trong khi chờ kết quả nuôi cấy. Tuy nhiên, việc sử dụng bừa bãi các KS phổ rộng cũ và mới đã góp phần đáng kể vào sự gia tăng tình trạng kháng kháng sinh (AMR) – một vấn đề sức khỏe toàn cầu đáng lưu ý.
Những dữ kiện của một nghiên cứu tiền lâm sàng cho thấy: đái tháo đường thai kỳ (ĐTĐTK) có thể làm tăng nguy cơ nhiễm trùng và tử vong ở trẻ sơ sinh nguyên nhân do liên cầu khuẩn nhóm B (GBS). Có nhiều lý do như: thay đổi hệ vi sinh vật âm đạo, giảm đáp ứng miễn dịch và quá trình điều hoà thích nghi của vi khuẩn.
Tiền sản giật là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong mẹ. Bệnh lý tiền sản giật có liên quan đến sự xâm lấn tế bào nuôi nhau thai và sự tái cấu trúc động mạch xoắn tử cung. Với đặc tính kháng viêm, aspirin được giả thuyết rằng có thể cải thiện sự bám nhau giúp ngăn ngừa tiền sản giật. Vì vậy, spirin liều thấp được khuyến cáo sử dụng để dự phòng tiền sản giật trong thai kỳ. Mặt khác, aspirin cũng được chỉ định cho các trường hợp thai giới hạn tăng trưởng, sinh non, thai lưu.
Sốt là triệu chứng phổ biến trong thực hành lâm sàng hàng ngày và một số lượng lớn người bệnh nhập viện do sốt. Nhiều người bệnh được dùng thuốc kháng sinh, thuốc kháng vi-rút, thuốc kháng nấm hoặc thuốc kháng ký sinh trùng, nếu coi nhiễm trùng là nguyên nhân chính. Tuy nhiên, thuốc được dùng để điều trị có thể là nguyên nhân tiềm ẩn gây sốt trong bối cảnh như vậy