Sơ kết báo cáo ADR 6 tháng đầu năm 2016 tại bệnh viện Từ Dũ
Tổng số báo cáo ADR trong 6 tháng đầu năm 2016 tại Bệnh viện Từ Dũ từ các khoa phòng là 83 báo cáo, là 1 trong 10 bệnh viện báo cáo ADR nhiều nhất trong 6 tháng đầu năm 2016. So với số lượng báo cáo ADR 6 tháng đầu năm 2015 (60 báo cáo), số lượng báo cáo ADR tăng 23 báo cáo
Về chất lượng báo cáo ADR:
Các báo cáo ADR có khoảng 95% báo cáo đạt đầy đủ thông tin. Các báo cáo thường thiếu thông tin của người báo cáo (bao gồm số điện thoại, địa chỉ email)
1.Phân bố theo tháng:
Nhận xét:
Số lượng báo cáo ADR phân bố đều trong các tháng, trung bình 13.8 báo cáo/tháng, tăng so với 6 tháng đầu năm 2015 (10 báo cáo/tháng), tập trung nhiều hơn vào tháng 3 với 19 báo cáo chiếm tỷ lệ 22.9%. Số lượng báo cáo ADR nhận được ít nhất vào tháng 2 với 8 báo cáo chiếm tỷ lệ 9.6%
2.Phân bố số báo cáo ADR theo Khoa:
Nhận xét:
Số lượng báo cáo ADR từ khoa Sanh cao nhất với 23 báo cáo chiếm tỷ lệ 27.7%, tiếp theo là khoa Hậu Sản M với 13 báo cáo chiếm tỷ lệ 15.7%, khoa Phụ với 12 báo cáo chiếm tỷ lệ 14.5%, khoa Hậu Phẫu với 9 báo cáo chiếm tỷ lệ 10.8%. Đây là những khoa rất tích cực trong công tác theo dõi và báo cáo ADR góp phần đánh giá lợi ích, nguy cơ của thuốc, tăng cường sử dụng thuốc an toàn, hợp lý và hiệu quả.
Các khoa không có báo cáo ADR trong 6 tháng đầu năm 2016 gồm: Hậu Sản H, Cấp Cứu Chống Độc, Ung bướu phụ khoa và phòng khám.
3. Phân bố số báo cáo ADR theo người báo cáo
|
Số báo cáo ADR |
Tỷ lệ |
Bác sĩ |
41 |
49.4% |
Dược sĩ |
3 |
3.6% |
NHS |
39 |
47% |
Nhận xét: Đối tượng báo cáo ADR chủ yếu là Bác sĩ với 41 báo cáo chiếm tỷ lệ 49.4%, có giảm so với năm 2015 (71.7%), tiếp theo là Nữ hộ sinh với 39 báo cáo chiếm tỷ lệ 47%, tăng so với năm 2015 (26.6%), Dược sĩ với 03 báo cáo chiếm tỷ lệ 3.6%, tăng so với năm 2015 (1.7%)
4. Phân bố số báo cáo ADR theo nhóm thuốc
STT |
Nhóm thuốc |
Số báo cáo ADR |
Tỷ lệ |
1 |
Kháng sinh |
43 |
51.8% |
3 |
Thuốc giảm đau |
27 |
32.5 |
4 |
Oxytocin |
2 |
2.4% |
7 |
Thuốc khác |
11 |
13.3% |
Nhận xét: Kháng sinh là nhóm thuốc có tỷ lệ báo cáo ADR nhiều nhất với báo cáo chiếm tỷ lệ 51.8% giảm so với năm 2015 (60%), tiếp theo là thuốc giảm đau với 27 báo cáo chiếm tỷ lệ 32.5% tăng so với năm 2015 (21.7%).
Không ghi nhận báo cáo ADR từ thuốc ung thư so với 6 tháng đầu năm 2015
5. Phân bố số báo cáo ADR theo cơ địa bệnh nhân
Nhận xét: Số báo cáo ADR trên bệnh nhân không có tiền căn dị ứng thuốc là 67 báo cáo chiếm tỷ lệ 80.7%, tăng so với năm 2015 (80%). Số báo cáo ADR trên bệnh nhân có tiền căn dị ứng thuốc là 16 báo cáo chiếm tỷ lệ 19.3%, tăng so với 6 tháng đầu năm 2015 (15%), thể hiện nhân viên y tế có sự quan tâm trong việc khai thác tiền sử dị ứng của bệnh nhân, do vậy nên theo dõi sát bệnh nhân khi chỉ định sử dụng thuốc để kịp thời xử trí ADR.
6. Những thuốc được báo cáo nhiều nhất
Các thuốc nghi ngờ gây phản ứng có hại xuất hiện nhiều nhất trong các báo cáo ADR thuộc 2 nhóm chính là:
- Nhóm thuốc kháng sinh (43 báo cáo) với đại diện là Cefotaxim, Cefadroxil, Clindamycin trong đó Cefotaxim chiếm tỷ lệ cao nhất với 58.1% (25 báo cáo), giảm so với năm 2015 (66.7%)
- Nhóm thuốc kháng viêm giảm đau (27 báo cáo) với đại diện là Diclofenac, Ketoprofen trong đó Diclofenac chiếm tỷ lệ cao nhất với 85.2% (23 báo cáo) tăng so với năm 2015 (76.9%)
Trong giai đoạn năm 2018-2021, Mạng lưới An toàn Chăm sóc Sức khỏe Quốc gia (NHSN) đã báo cáo rằng 0,4% (n = 1.951) các ca nhiễm trùng mắc phải tại bệnh viện (HAI) ở Hoa Kỳ nguyên nhân do Acinetobacter spp. gây ra. Trong số này có 28-45% không nhạy cảm với kháng sinh carbapenem (tức là trung gian hoặc đề kháng).
Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng (RCT), BLING III cung cấp bằng chứng việc sử dụng truyền liên tục (CI) so với truyền ngắt quãng piperacillin/tazobactam và meropenem trên bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Điều này được củng cố bởi một đánh giá tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp (SRMA) của 18 RCT về CI hoặc truyền kéo dài (EI) (thời gian từ 3–4 giờ) các kháng sinh beta-lactam. Thách thức hiện nay là chuyển đổi CI như một tiêu chuẩn chăm sóc cho bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Các cân nhắc chính bao gồm các vấn đề sau:
Các nhà nghiên cứu thuộc Đại học Alabama tại Birmingham, đã tiến hành phân tích dữ liệu thứ cấp trên đối tượng phụ nữ tăng huyết áp mạn tính trong thai kỳ, so sánh với phương pháp điều trị chính. Tăng huyết áp mạn tính nhẹ trong nghiên cứu được định nghĩa là huyết áp 140-159/90-104 mmHg trước 20 tuần của thai kỳ.
Nhiễm trùng huyết – sepsis - vẫn là một trong những nguyên nhân gây tử vong lớn nhất trên thế giới, Tổ chức Y tế Thế giới ước tính 11 triệu người tử vong mỗi năm do tình trạng này. Các yếu tố chính của việc quản lý sepsis là chẩn đoán sớm, liệu pháp kháng sinh kinh nghiệm sớm và phù hợp, với biện pháp kiểm soát nguồn gây bệnh thích hợp và bảo tồn chức năng các cơ quan.
Sự ra đời của vắc-xin giúp chúng ta chủ động phòng chống các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm. Tổ chức y tế thế giới ước tính chương trình tiêm chủng hiện nay giúp ngăn ngừa 3,5-5 triệu ca tử vong mỗi năm do các bệnh như bạch hầu, uốn ván, ho gà, cúm và sởi [2].
Phòng ngừa suy nhược, mệt mỏi, đau nhức:
Hoạt động mỗi ngày đi bộ ngắn, tập các bài tập nhẹ nhàng. Giữ tinh thần ổn định
Chế độ ăn hợp lý trao đổi thêm với bác sĩ về dinh dưỡng bổ sung (thực phẩm giàu protein như thịt, cá, phô mai, sữa chua...). Uống nhiều nước, trừ khi có hướng dẫn khác.
Chườm khăn lạnh nếu có nhức mỏi, đau cơ.